2007/09/13

Hình Ảnh QLVNCH


SVSQ Khóa 4/72B Bài Viết

LÊ VĂN THẮNG
Tiểu Ðoàn 249 Ðia Phương Bình Thuận
( Cựu học sinh TH.PBC 65-72)
–––––––––––––––––––––––––––

Tôi sinh ra và lớn lên tại Mũi Né _ một địa danh chung cho hai xã: Khánh Thiện và Thạch Long. Nhà tôi ở Thạch Long. Nhà Ngoại tôi ở Khánh Thiện. Hai nơi đều là nơi tôi sinh sống nhiều năm nên thuở thiếu thời của tôi dính liền với cả hai nôi này.

Như Thanh Tịnh viết trong “Ngày Tựu Trường” rằng “...lúc ấy, tôi chưa biết ghi và lớn lên, tôi không nhớ hết ...”. Mặc dù quê hương tôi là Mũi Né, là Phan Thiết, là Bình Thuận, nhưng tôi không biết nhiều về quê hương của mình, vì thuở nhỏ, tôi chỉ lo học và không để ý tới những gì khác. Khi lớn lên, tôi xa Mũi Né, xa Phan Thiết và Bình Thuận. Ngày trở lại quê hương thân thương là những ngày quê hương mình sống trong sự hấp hối.

Khi muốn viết về Phan Thiết, tôi không có nhiều dữ kiện để viết. Tôi chọn cách viết theo lối tự truyện để trải dài tâm tình mình trong một khía cạnh nào của cuộc sống. Có những việc trong bài này không thuộc về quê hương Bình Thuận nhưng từ đó, chính chúng ta sẽ so sánh với Bình Thuận để tự hào về quê hương biển mặn của mình.

Ðã là tự truyện thì khi viết ra, có những điều vì quá thật nên dễ va chạm với những người muốn che dấu hay không thừa nhận sự thật, hoặc đã thừa nhận sự thật nhưng cho rằng không nên viết thế này hay thế kia. Theo tôi, nhiều người đang thực hiện giấc mơ giải phóng quê hương Việt Nam. Họ càng nên ghi nhận sự thật. Ngày mai, khi hoàn thành một trách nhiệm quan trọng, họ phải làm một cái gì hoàn toàn tốt đẹp hơn, chứ không phải chỉ làm một cái gì tốt hơn chút xíu là đủ.


NHỮNG NGÀY THƠ ẤU

Như đã viết, thời thơ ấu của tôi không có gì xuất sắc. Phạm vi hiểu biết của tôi chỉ là đoạn đường từ nhà đến trường học. Tôi học Tiểu Học ở trường Tiểu Học Thạch Long và khép kín thời thơ ấu của mình trong sách vở.

Tới tháng 6/1965, Mũi Né chưa có trường Trung Học. Tôi phải chuẩn bị hành trang để thi vào Ðệ Thất tại Trung Học Phan Bội Châu. Tôi xin phép nghỉ học trước một tháng để vào Phan Thiết học luyện thi. Tôi được học luyện thi đệ thất tại trường bà Năm Thông ở Lại An. Tại đây, tôi làm quen với Kim Ngọc và Phú Long. Chính nơi này, tôi và chiến hữu của tôi chịu trách nhiệm tái chiếm trong những ngày Phan Thiết hấp hối.

Rồi cũng như những ngày thơ ấu khác, khởi hành từ Phan Thiết, “sáng xách cà-men đi, tối xách về” trong những ngày luyện thi.

Khi khóa luyện thi sáp mãn, một chiều nọ, chúng tôi nghe nhiều tiếng súng và hai bên bắn nhau dữ dội ở ngay bên cạnh trường mình. Các cô quá sợ hãi nên chui xuống gầm bàn. Nhiều cậu chạy tán loạn. Tôi băng đại qua những tầm đan và chạy bộ về cầu Sở Muối. Dì tôi quá lo, cho người đi đến cầu Sở Muối theo dõi tin tức và đón tôi ở đó.

Ðây là lần đầu tiên tôi đối diện với chiến tranh trên quê hương mình. Chiến tranh là chiến tranh, tuổi trẻ miền Nam vẫn hờ hững. Tuỏi trẻ miền Nam vẫn không bị nhồi sọ theo đường hướng chính trị định sẵn, ngoại trừ tuổi trẻ miền Nam ở những vùng có sự kiểm soát của Việt Cộng.

Trong năm này, tôi được trúng tuyển vào Ðệ Thất, để trở thành một trong 300 tân học sinh của Trung Học Phan Bội Châu. Sự học lại chi phối đời sống của tôi.

Ðến năm 1968, cũng như mọi năm, tôi về Mũi Né ăn tết. Sáng mùng 5 tết, cậu tôi _ Huỳnh Minh Vận (PBC) và tôi dự định trở lại Phan Thiết. Bà Ngoại tôi không đồng ý vì cho là mùng 5 xui. Chúng tôi không tin, nhưng chìu bà nên hoãn lại ngày đi tới hôm sau. Cũng trong ngày đó, chúng tôi nghe tin Việt Cộng đánh vào Phan Thiết. Gần cả tháng sau, chúng tôi mới trở lại Phan Thiết được.

Khi trở lại Phan Thiết, nhà Dì tôi ở đường Hải Thượng Lãn Ông bị tróc ngói. Nhà người bạn cùng liên lớp ở kế bên (nhà của Phan Chưởng Lý) bị đạn B40 bắn mất mặt tiền. Chúng tôi vừa học, vừa dọn dẹp nhà cửa. Ðêm đến, cả nhà phải tạm thời di chuyển đến nhà quen ở đường Ngư Ông tá túc qua đêm. Việc di chuyển tạm thời phải kép dài cả tháng. Sau đó, chúng tôi ở nhà ban đêm.

Một đêm, cả nhà ngủ trong hầm. Vì nóng, Cậu tôi và tôi ngủ trên hầm. Tiếng đạn pháo kích bay vèo vèo và nổ lớn. Mảnh đạn bay rào rào trên nóc nhà Dì tôi. Chúng tôi phóng xuống hầm. Nghe tiếng la khóc ở nhà bên. Chúng tôi chạy ra. Phan Chưởng Lý bị trúng đạn pháo kích và chết.

Phan Thiết trông thê thảm. Ðây là lần thứ hai tôi biết tới chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn không ảnh hưởng tới chúng tôi.

Cho tới bây giờ, tôi vẫn thương xã hội tự do của Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi có cả tuổi trẻ, có hoàn toàn tự do suy tư, có đủ thứ quyền hạn và thời gian của mình. Chúng tôi không bị bắt buộc phải hoan hô hay đã đảo ai, dù kẻ thù là Việt Cộng, đang pháo kích vào nhà dân, đang đánh nhau với lính ...

Cũng trong năm này, tôi được biết tôi chỉ có đủ điều kiện để học hết lớp Ðệ Tam vào năm tới và không còn đủ điều kiện để học cho hết trung học. Ba tôi khuyên tôi về đăng vào Nghĩa Quân sau khi hoàn tất Ðệ Tứ. Tôi không đồng ý. Tôi quyết định học hết Ðệ Tam rồi đi lính, chấp nhận ngả rẽ cuộc đời, dù phải đi bất cứ nơi nào. Tôi vẫn không có những suy tư nào khác ngoài việc học.

Cuối lóp Ðệ Tứ, tháng 6/1969, có người quen làm học bạ giả cho tôi xong mới cho tôi biết và kêu tôi vào Sài Gòn gấp để lo thủ tục nhập học lớp Ðệ Nhị trường trung học tư thục Huỳnh Thị Ngà. Ðây quả là sự bất ngờ. Tôi vào Sài Gòn lo thủ tục. Tôi ở nhà người cậu tại Thị Nghè. Hàng ngày, tôi lội bộ trên đường Hồng Thập Tự, qua Ðinh Tiên Hoàng, đến Ða Kao. Tại trường Huỳng Thị Ngà, tôi nhận thấy thầy giáo hay, tận tâm nhưng học trò không chịu học. Thày ra toán. Nữ sinh giũa móng tay. Nam sinh ngồi chơi, đấu láo. Học trò không làm bài. Cuối cùng, thày giảng toán. Học trò chép bài giảng.

Xuất thân từ Phan Bội Châu, nơi có thày dạy, có học trò chăm học, tôi không chịu đựng được cảnh học hành tại trường Huỳng Thị Ngà. Tôi quyết định bỏ trường, về lại Phan Thiết, ghi danh vào trường Bồ Ðề. Ít ra, tại trường Bồ Ðề, vẫn còn có những học trò chịu học.

Lúc thi Tú Tài phần I, trong phòng thi của tôi còn có những bạn học cũ thi nhảy. Tôi bị một người bạn giựt bài thi. Tôi bối rối bỏ sót một trang không viết bài. Tuy sợ thi rớt, tôi mất hết hy vọng. Chính điều này chi phối các bài thi khác của tôi. Nhưng may thay, tôi được trúng tuyển, dù không cao.

Năm 1970, sau khi đậu Tú Tài I, tôi làm đơn xin vào lại Phan Bội Châu và được chấp nhận. Tôi học Ðệ Nhất Phan Bội Châu. Tôi hoàn tất trung học và đậu Tú Tài II vào giữa năm 1971.

Tôi rời Phan Thiết lần nữa để vào Sài Gòn theo học Luật. Luật là ngành tôi không thích. Tôi thích MPC ờ Khoa Học hơn. Nhưng tôi có linh cảm tôi không thể hoàn tất cử nhân. Luật Khoa có thể giúp tôi học hàm thụ dễ dàng. Và, tôi chọn Luật. Khi học Luật, tôi phát giác ra rằng, ngành nào cũng có cái hay của nó.

Trong những ngày cuối của năm thứ nhất Luật Khoa, chiến sự bùng nổ mạnh vì Mùa Hè Ðỏ Lửa. Sắc Luật 2/1972 của Tổng Thống Thiệu ban hành cắt tuổi hoãn dịch học vấn. Dù đậu hay rốt chứng chỉ 1 Luật Khoa, tôi cũng phải đi lính.

Tôi lo thủ tục đăng Hải Quân vì tôi thích cảnh lênh đênh trên biển. Nhưng sau cùng, tôi phải dẹp bỏ ý định này vì cần thì giờ để lấy cho được chứng chỉ 1 Luật, công trình của một năm học vấn, thay vì ôn toán cho thi tuyển vào Hải Quân mà tôi nhắm không tranh nổi với các sinh viên MPC, MGP ...

Tôi đậu chứng chỉ 1 Luật và đi trình diện nhập ngũ ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ (trại Lê Văn Duyệt).

Cuộc đời đi vào ngả rẽ. Ðời binh nghiệp bắt đầu...


NHỮNG NGÀY XA PHAN THIẾT

Các sinh viên bị động viên quá đông. Trung tâm huấn luyện Thủ Ðức không còn đủ chỗ nữa. Một buổi sáng mờ sương, tôi được gọi tên với nhiều người khác lên máy bay C130. Chuyến bay đưa chúng tôi đến Nha Trang và xe GMC chở chúng tôi về trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế. Nơi đây, chúng tôi được chia làm ba Tiểu Ðoàn. Tiểu Ðoàn 1 và 2 SVSQ có ít nhất một chứng chỉ quân sự học đường nên sẽ phải thụ huấn chỉ 16 tuần lễ. Tiểu Ðoàn 3 chúng tôi không ai có quân sự học đường nên sẽ phải thụ huấn 24 tuần lễ.

Tiểu Ðoàn 1 mang khóa 3/72 SVSQ. Tiểu Ðoàn 2 là khóa 4/72A SVSQ. Tiểu Ðoàn 3 chúng tôi là khóa 4/72B SVSQ. Lẽ ra chúng tôi phải ra trường vào tháng 6/1973. Vì nhu cầu đi chiến dịch chiến tranh chính trị nên chúng tôi ra trường vào tháng 9/1973. Cấp bậc chính thức được hồi tố từ tháng 6/1973, Tôi đi chiến dịch hai tháng tại Phú Bổn và hai tháng tại Phú Yên.

Trong thời gian chiến dịch, tôi phát giác ra là tài liệu trang bị cho chúng tôi là những tài liệu cũ nên không thích hợp với tình thế, nhất là sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết. Tôi phải mua báo hàng ngày để được tặng bản văn Hiệp Ðịnh Paris, theo dõi sự vi phạm của Việt Cộng. Từ đó, tôi họp các bạn, phân tích các điều khoản trong hiệp định và trang bị cho nhau lý luận cần thiết để nói chuyện với đồng bào và các cấp nơi công tác.

Khi ra trường, tôi muốn trở về phục vụ tại Bình Thuận nhưng Bình Thuận không nhận người trong khóa tôi. Tôi chọn Bạc Liêu.

Tại tiểu khu Bạc Liêu, tôi được điều động về Ðại Ðội 2, Tiểu Ðoàn 489 ÐPQ. Ðầu tiên, tôi được bổ nhiệm làm trưởng đồn cấp đại dội trừ. Cấp số trong đồn chỉ có 12, 13 người, kể cả tôi. Ðồn này mớÔi thành lập không lâu, nằm gọn trong vùng địch và thường xuyên bị VC pháo kích. Tôi hiểu rằng Chuẩn Úy mới ra trường rất dễ bị khi dễ. Tôi đã dằn mặt trong bài nói chuyện đầu tiên tại đồn. Trung Sĩ Kỳ, cũng dân Phan Thiết, luôn luôn thử tài tôi. Một hôm, khi đi hành quân bên ngoài và dùng cơm ở nhà vợ của một tay kinh tài VC, anh ấy bỏ quên khẩu súng Colt 45. (Tưởng cũng nên nhắc lại, tại những vùng VC kiểm soát, hầu hết dân trong vùng này là bà con VC. Vào xóm, những thanh niên đều có hình trên bàn thờ, nhưng trên thực tế, họ còn sống và đang theo VC trong bưng. ) Anh Kỳ lo lắng quá. Anh đề nghị mở cuộc hành quân gấp để anh ấy đi lấy lại khẩu súng. Tôi không chấp nhận. Tôi bảo anh ấy hãy ngủ ngon, sáng mai tôi dẫn quân ra lấy súng lại cho anh. Tôi bảo đảm là bà ấy sẽ dâng súng cho anh ấy. Anh không tài nào chợp mắt. Tôi biết. Tôi vẫn tỉnh bơ. Sáng hôm sau, tôi dẫn quân ra và bà ấy vào tủ lấy khẩu súng Colt tr cho chúng tôi. Anh Kỳ hỏi tại sao tôi biết bà ấy trả súng. Tôi trả lời rằng đêm anh ấy bỏ lại súng, bà ấy thông báo cho VC đến phục kích. Về phương diện tâm lý, chúng tôi phải ra lấy súng. VC sẽ tiêu diệt toán quân này rồi tiêu diệt đồn chúng tôi. Chúng tôi không ra, VC không biết chúng tôi có những toan tính gì. Tới sáng, họ phải rút lui. Nếu họ lấy luôn cả súng theo, chúng tôi có thể không để yên cho gia đình họ. VC có thể cho rằng chúng tôi để lại súng như miếng mồi để nhử họ hay gia đình họ. VC đành phải trả lại. Anh Kỳ bắt đầu nể tôi.

Tôi biết rằng, chiến tranh Việt Nam không chỉ dựa trên súng đạn mà còn có cả yếu tố chính trị. Dân địa phương cũng là yếu tố quan trọng để quyết định chiến tranh. Tôi tìm hiểu tâm lý lính, tâm lý dân. Một buổi sáng, tôi kêu một người lính mà tôi nghĩ anh ấy là người nhiều chuyện nhất. Tôi tự vẽ bản đồ ruộng lúa trong khu vực hành quân. Bảo anh ấy cung cấp cho tôi chủ nhân những thửa ruộng đó. Anh ấy tò mò hỏi lại tôi biết để làm gì. Tôi trả lời rằng, đến khi lúa cao, VC sẽ từ trong các đám ruộng bắn sẻ ra. Tôi biết trước để chấm điểm và gỏi về cho pháo binh. Trong tương lai, viên đạn bắn ra từ đám ruộng nào, tôi chỉ cần cho mật mã thì đám ruộng ấy bị cày nát. Ðúng như sự dự liệu của tôi, tin tức được lan ra nhà dân. Mùa lúa cao, không có viên đạn nào từ trong lúa bắn sẻ chúng tôi.

Ðiều mà tôi không đồng ý tại miền Tây là tình trạng lính ma, lính kiểng. Tôi bất mãn nhất là chúng tôi phải đi mở đường, hy sinh vài chiến hữu để cho một lính ma về nhà an toàn. Một Ðại Ðội, trên cấp số là 120 người nhưng trên thực tế chỉ có 25 hay 30 người. Có lần, cả đại đội tôi đi hành quân chỉ có 13 người. Khi một sĩ quan được thăng cấp được vài tháng thì có cơ nắm Ðại Ðội Trưởng. Một khi được làm Ðại Ðội Trưởng, Tiểu Khu gởi đến mười lính ma, An Ninh Quân Ðội Tiểu Khu gởi vài lính ma rồi tới Chi Khu, Anh Ninh Quân Ðội Chi Khu ... Cuối cùng quân số chỉ có trên cấp số. Nếu bị thanh tra, chính Ðại Ðội Trưởng lãnh đủ. Ðại Ðội Trưởng đành phải kiếm thêm một số lính ma, lính kiểng để lo lót khi cần. Khi có lính ma tức là mình có fault và càng bị sự chèn ép của áp lực An Ninh Quân Ðội. Tôi không thích như vậy. Thà tôi làm Trung Ðội Trưởng với đủ quân số hơn là làm Ðại Ðội Trưởng trong tình trạng thiếu quân số. Tôi xin thuyên chuyển về Bình Thuận.

Trước khi về Bình Thuận, Tiểu Ðoàn chúng tôi được tăng phái cho Tiểu Khu An Xuyên (Cà Mau). Ðại Ðội chúng tôi đóng tại Căn Cứ Tân Phú, gần ngã ba Kiên Giang, Chương Thiện và An Xuyên. Ðồn chúng tôi dành cho cấp Tiểu Ðoàn nhưng 20 mạng chúng tôi phải thủ ở đó. Ðồn rộng, chúng tôi không đủ cấp số để gác, phải kéo dài giờ gác và phải bỏ trống nhiều vọng gác. Ðiều đạc biệt mà tôi ghi nhận nơi vùng Huyện Sử, Thới Bình này là đất rất dễ cháy. Một cục đất bất cứ nơi nào có thể nấu cả nồi cơm mà chưa tàn. Tổ ong thì vô số, Những vũng B52 xưa thì đầy cá lóc và cá trê. Chúng tôi dùng đan cũ của pháo binh con lại trong đồn để đi rà cá. Chúng tôi giữ cá để ăn cả tuần lễ. Chính đất cháy này đã bốc cháy khi một người lính trong đại đội tôi vô tình bỏ rơi tàn thuốc. Ban ngày, vùng đất cháy lên khói. Ban đêm, vùng đất cháy phát ra lửa ngọn. VC đã điều dộng Tiểu Ðoàn Z 7, Z 8, Tiểu Ðoàn Quyết Thắng và các lực lượng du kích để tấn công chúng tôi theo chiến thuật công đồn, đã viện làm một Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 21 bị đánh tan khi đến tiếp viện chúng tôi. Trong thời gian bị vây một tuần lễ, đan gần hết, thực phẩm không còn. Tất cả những Chuẩn Úy và tôi họp nhau đề nghị bỏ đồn nếu không được tiếp tế đạn dược và thực phẩm. Ðại Ðội Trưởng chúng tôi, Thiếu Úy Rao, gọi máy về Tiểu Ðoàn Trưởng và báo cáo là các Chuẩn Úy đòi bỏ đồn. Khi được hỏi, ông ta nói đích danh tôi muốn bỏ đồn. Tôi nói chuyện trực tiếp với Tiểu Ðoàn Trưởng rằng chúng tôi tử thủ có điều kiện và điều kiện đó là là có đạn và thực phẩm để chống giặc. Nếu không, bỏ đồn là việc phải làm để bảo tồn sinh mạng anh em.

Trong sự thất vọng, lính bỏ đồn làm hai đợt. Ðợt 1, chúng chạy về trình diện Tiểu Ðoàn. Ðợt 2, chúng bị bắt sống trên đường về trình diện Tiểu Ðoàn. Tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên, tôi lo lắng vì trong đám chạy đi có người truyền tin trung đội và đang mang trong mình mật lệnh tuyền tin. Tôi đề nghị thay đổi mật lệnh truyền tin và chuẩn bị kế hoạch tuệt thoái. Thiếu Úy Rao không đồng ý. Ðêm nay, lính bỏ đồn, chỉ còn sĩ quan và vài hạ sĩ quan. Tôi đoán là VC sẽ tấn công trong đêm. Tôi khuyên Thiếu Úy Rao làm kế hoạch di tản để tản thương, bảo toàn lực lượng còn lại và bảo toàn số súng chúng tôi còn giữ trong đồn. Giặc đang vây bên ngoài, Thiếu Úy Rao lưỡng lự. Kế hoạch của tôi là gọi pháo binh bắn đạn chụp từ trong đồn bắn ra. VC sẽ trốn đạn và chúng tôi đi ra từ cổng chính. Khi chúng tôi ra khỏi đồn được vài trăm thước, tất cả mìn tự động trong đồn nổ, lửa rực trời. Chúng tôi di tản về Tiểu Ðoàn.

Trong khi ở Bạc Liêu, có lần các bạn rũ tôi đi coi bói nơo ông sư người Miên. Tôi không thích coi bói, chỉ đi theo chơi thôi. Tôi nói là nếu nói đúng chuyện quá khứ thì quá thừa. Nếu nói chuyện tương lai mà xấu thì chỉ làm lo thêm thôi. Khi đến nơi, từng người coi. Ðến lượt tôi, tôi không coi. Ông sư Miên bắt phải coi vì có người đặt tiền cho tôi rồi. Tôi ngồi xuống. Ông hỏi tôi muốn coi gì. Tôi bảo là tôi xin thuyên chuyển về quê, có được không. Ông hỏi quê tôi ở hướng nào. Tôi chỉ về hướng Phan Thiết. Ông chỉ chiều ngược lại (tức Cà Mau). Ông nói rằng, trong tháng 7, tôi đổi đơn vị và bị thương chân, có thể cụt cả chân. Tôi nói với người yêu, nếu phen này, rủi mà mất chân thì tình minh coi như chấm dứt. Sau đó, tôi xin về phép Phan Thiết. Khi trở lại Bạc Liêu, tôi không vào Ðại Ðội vì tôi không thích Thiếu Úy Rao. Ông ta không có trách nhiệm. Tôi ở chơi tại nhà người yêu. Hai tuần sau, tôi đi thẳng xuống Cà mau, vào Huyện Sử để trình diện Tiểu Ðoàn và xin đi đơn vị khác. Tiểu Ðoàn Trưởng hỏi tôi, tôi muốn chọn Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ hay Ðại Ðội nào. Tôi trả lời, trừ Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ và Ðại Ðội tôi đang ở, Ðại Ðội tác chiến nào cũng được. Bây giờ là tháng 7 âm lịch. Ông ta cho tôi về Ðại Ðội 1, thay thế bạn tôi. Về don vị mới, tôi không thể vì tin thầy bói mà trốn tránh trách nhiệm. Tôi vẫn dẫn quân đi hành quân. Vài ngày sau, tôi bị lựu đạn nội hóa, bị thương cả hai chân.

Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển về Bình Thuận, tháng 12/1974.

TRỞ LẠI BÌNH THUẬN & NHỮNG NGÀY PHAN THIẾT HẤP HỐI

Tôi về lại Bình Thuận thân thương, nhìn lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn bè năm nào trong vui sướng.

Tuy nhiên, về lại Bình Thuận lần này, tôi chưa được ổn định. Tôi được đưa về Tiểu Ðoàn 249 ÐPQ dưới sự điều động của Thiếu Tá Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn đóng lưng chừng núi Tà Dôn. Sau đó, chúng tôi đóng ở Bình An và Bình Lâm. Vì vết thương của tôi còn nhiều mủ nên tôi được giao phó làm phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba. Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết. Tôi chỉ biết những sĩ quan trong tiểu đoàn như Trung Úy Thời (người Lại An), Ðại Uý Tập (Mũi Né), Thiếu Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Ðoàn) và những người khác thì tôi đã quên tên. Ðiều tôi thấy sung sướng là cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hào về Bình Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đêm ông anh em về nghỉ, và luân phiên hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực lên nhậu chơi. Tinh thần này đã khác biệt hoàn toàn với những đơn vị của tôi tại Bạc Liêu. Tình huynh đệ chi binh, tình chiến hữu thật là đậm đà.

Khi còn đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần Tùy Hòa. Ngày khai quang cuối cùng, màn đêm buông xuống. Hai anh Công Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy về nhờ Tiểu Ðoàn cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Ðoàn, vừa bước xuống xe thì hay tin hai anh Công Binh khi nãy đã bị VC bắn lật xe chết rồi. Thế là tôi thoát chết trong gang tất.

Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, “tàn quân” chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ nghe kể là chết chóc nhiều trên đường chạy loạn. Người giết người để cướp vàng, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..
.
Về đến Phan Thiết, những người này đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ Phan Thiết ... Sự thật thì tôi không nắm vững vì luôn luôn có mặt tại trận tuyến. Tỉnh Trưởng Bình Thuận chận lại, không phát lương cho binh sĩ. Chúng tôi không lãnh lương trọn hai tháng 3 và 4/1975.

Ðến đầu tháng 4/1974, Ðại Úy Huỳnh Văn Quý thay thế Thiếu Tá Sang, làm Tiểu Ðoàn Trưởng chúng tôi. Tiểu Ðoàn chúng tôi được điều động đến tái chiếm Phú Long. VC đã chiếm hai bên đường của Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân. Chúng tôi đóng quân cách VC trong gang tấc và cách Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ của chúng tôi thật nặng nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tài sản và nhà cửa dân.

Ðối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được qua phim ảnh, người Mỹ đã dùng lựu đạn và vũ khí để chiếm lại từng căn nhà. Khi chiếm được khu vực nào thì nhà cửa của khu vực đó coi như thê thảm. QLVNCH thì nghèo nàn hơn, không thể dùng số lượng đạn dược như vậy cho chiến tranh trong thành phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tài sản dân.

Lúc này, dân Phú Long đã di tản hết. Tiểu Ðoàn chúng tôi tiến từng bước một, chậm, vì VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi mình di chuyển trên hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn đóng quân nới nào thì chỉ trong vòng 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Ðại Úy Quý đã đơn thân độc mã ra quan sát chiến trường. VC bắn vào áo giáp của ông mà đầu đạn vẫn còn trong áo.

Sau vài ngày, chúng tôi cũng đã giải tỏa được khu vực bên này Quốc Lộ 1, tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long. Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Ðại tá Nghĩa đã ra biển Thương Chánh để chỉ huy và sẵn sàng rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào.

Trong tình trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đem thêm một người lính và khẩu cối 81 đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi vận dụng kiến thức toán học của mình để làm ra bảng tác xạ. Khi tôi được thông báo địa điểm, trong chớp nhoáng, đạn 81 sẽ tới đó khá chính xác.

Thời gian không còn tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không còn biết đến ngày tháng nữa. Sau này, tôi chỉ dựa vào sách để biết ngày mất Phan Thiết chứ thật tình tôi không biết là ngày 18, 19 hay 20/4/75.

Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đài quan sát coi VC đi về hướng nào. Ðài quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được gì. Ðêm ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81, tôi được lệnh xếp càng súng, bỏ sẵn trên xe và đợi lệnh.

Trung Úy Ba vừa cười vừa nói với tôi: “ Thắng, mày đừng có chạy trước nghen”. Tôi trả lời: “ Tôi sẽ chờ Tiểu Ðoàn, có di thì cùng đi, có chết thì cùng chết”.

Tôi theo dõi tình hình qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán nhưng không bên nào nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Ðoàn. Ðại Úy Quý gọi về Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Ðoàn chúng tôi về “Mã Trái Bí” chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Ðoàn chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi.

Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quên tên đã nói rằng: “Tiểu Ðoàn chạy kệ họ, mình phải tử thủ. Ðứa nào chạy tao bắn bỏ mẹ”.
Chính câu nói này làm tôi vẫn còn thấy nhục nhã từ ngày cuối cùng của Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngày mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi, tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra, tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục chiến đấu.

Tiểu Ðoàn tôi rồi cũng đến. Tôi tháp tùng với Tiểu Ðoàn, di chuyển về Mã Trái Bí (mật mã của Lầu Ông Hoàng). Tiểu Ðoàn đã liên lạc về Tiểu Khu nhưng không liên lạc được. Chúng tôi đành nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi liên lạc được với Tiểu Khu và được lệnh về hợp tác với Thiếu Tá Cao (Hải Long). Chúng tôi đi bộ suốt đêm để tiến về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi nhưng không ai được nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng. Chúng tôi thấy nhiều người lính bỏ ngủ, uể oải đi về. Chúng tôi chận hỏi, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải Long) đã ra tàu đi rồi, không còn ai, chi khu bỏ trống. Chúng tôi ngỡ ngàng. Chúng tôi vẫn tưởng được hợp tác với Hải Long để tiếp tục chiến đấu.

Chúng tôi không còn ý định đi về Chi Khu Hải Long. Chúng tôi về bờ biển Mũi Né. Lúc này, không còn ai chỉ huy ai. Một sự tan hàng trong thầm lặng.
Về đến Mũi Né, chúng tôi ở ngay trước nhà Dì tôi. Tôi không vào. Một số sĩ quan đón ghe đi Long Hải. Tôi không có tiền từ hai tháng nay. Không đồng xu dính túi. Thiếu Úy Quận trả tiền ghe cho tôi. Ghe chập cứng người, đa số là lính. Ghe gần chìm mà chủ ghe chưa cho chạy. Chúng tôi sợ khi mặt trời lên thì VC nhào vô. Chúng tôi nóng lòng. Tôi băng đạn bỏ vào túi, đưa súng lên, chỉ vào bà chủ ghe và ra lệnh cho chạy. Bà sợ quá kều chồng cho ghe chạy. Thiếu Úy Quận ra can. Tôi cười và chỉ vào ổ đạn trống trong súng.

Ghe chạy, tiến về Long Hải. Trên đường đi ngang qua Bình Tuy, tôi thấy xác người tri lềnh bềnh trên biển. Có người nói: “Nhìn xác kìa, ai ngửa mặt là đàn bà, ai úp mặt là đàn ông”. Tôi quan sát. Ðúng như vậy. Ðúng 100%. Tôi nhìn biển, nhìn về hướng Phan Thiết. Tôi thầm bảo: “Giã từ Phan Thiết, vĩnh biệt Phan Thiết”.

Ðến Long Hải trong chiều. Tôi gặp Ba tôi. Hai cha con đi với nhau trong những ngày tháng tại Long Hải. Tôi nghe tin Ðại Tá Nghĩa vận động tái chiếm Phan Thiết. Tôi đi tìm nhưng chẳng gặp ai. Tôi không biết liên lạc ai để trình diện. Khi nghe bài diễn văn từ chức của Tổng Thống Thiệu. Tôi liên tưởng tới ngày mất nước. Vài người bạn Mũi Né va tôi dự định lấy tàu vượt biên nếu mất Sài Gòn. Chúng tôi chỉ còn hy vọng cuối cùng là Mỹ có thể dùng chiến thuật như tại Nam Hàn ngày xưa, hoặc bỏ Sài Gòn về cố thủ miền Tây.
Hôm sau, hai cha con tôi nhận được lá thư từ Má tôi, kêu về. Tôi xa Mũi Né từ bậc Trung Học, xa nhà, đi lính xa xôi. Trong tình cảnh này, nếu hai cha con cùng bỏ nước ra đi thì Má tôi và các em nhỏ ra sao. Tôi lưỡng lự, so sánh rất lâu và quyết định về lại quê xưa để cùng chia xẻ ngọt bùi.

Tàu về bến Khánh Thiện. Tôi ghé thăm ông bà Ngoại. Má tôi cũng có ở đó. Má tôi thúc giục tôi đi trình diện. Tôi không kịp về nhà để sắp xếp. Hai cha con đi trình diện. Má tôi đến nơi với tôi. Tôi yêu cầu Má tôi mang hết quần áo của tôi. Tôi tin rằng lần này có đi nhưng không biết có về không. Má tôi la tôi: “Cách Mạng nói đi học tập 10 ngày thôi mà!”.
Tôi trả lời: “Nếu chính sách đúng đán thì mọi người phải nói giống nhau. Ðằng này, mỗi người nói một kiểu. Con có cảm tưởng họ đang che dấu điều gì. Nhưng con tin rằng, nếu có về thì lâu lắm, không phải là 10 ngày”.

Ba tôi và tôi bị đưa vào lao xá. Ở đó, tôi lén đào lỗ bên cạn chỗ ngồi để chôn giấu giấy tờ tùy thân, cả hình ảnh vợ tôi. Vài ngày sau, Ba tôi còn ở lại. Tôi bị đưa đi Cà Tót. Trên đường đi, xe GMC lún sình. Một cán bộ bước xuống la lớn: “Các anh xuống kéo xe lên. Xe chở được cả trăm người các anh mà các anh không khiêng nổi chiếc xe hay sao?”
Tôi mỉm cười và nghĩ rằng đầu óc của cán bộ VC sao bệnh hoạn quá.

Ở Cà Tót, VC hành hạ Thiếu Tá Thổ Thêm. Tôi đã từng nghe tiếng ông nhưng nay mới gặp mặt. Ông ấy già, ốm nhưng đôi mắt sáng. Trong những ngày đầu ở Cà Tót, họ mắng chửi ông đủ điều, bắt ông làm việc liên tục. Ông không nói. Tôi nhìn ông. Ðôi mắt ông vẫn sáng và tự tại. Ông không xin xỏ điều gì. Ông không nói một lời thanh minh. Tôi ngưỡng mộ ông. Ông có phong cách một quân nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sau đó vài ngày VC đưa ông đi đâu mất.

Những ngày ở Cà Tót, chúng tôi phải đi trồng đậu, làm việc tối ngày. Cơm ăn độn khoai với sạn vì gạo được xay từ cối xay tay. Côi lâu ngày, cát sạn lẫn vào với gạo.

Nạn sốt rét. Có lúc tôi nóng tới 40 độ. Mỗi ngày có một hoặc hai người chết. Trại không có thuốc hay VC không muốn cho chúng tôi dùng thuốc. Tôi không biết. Ai được đến trạm xa, được tuyền serum thì coi như là sắp chết tới nơi.

Tôi đã từng chôn chiến hữu, bạn tù của mình. Người chết bị quấn chiếu vào thả vào lỗ như chôn chó. Tôi thấy đau lòng, bùi ngùi. Chúng tôi khắc tên bạn trên cây để ngày sau gia đình họ có thể tìm thấy.

Tin Sài Gòn mất càng làm chúng tôi rã rời, tuyệt vọng. Tôi cảm thấy chúng tôi mất tất cả, mất hết niềm vui.Mười ngày trôi qua, có người nhắc đã đến ngày thứ mười. Tôi cười: “Ðừng nói tới ngày về!”.

Không khí tại Cà Tót trở nên khô khan và âm u. Dường như Thần Chết đang lãng vãng. Một số trong chúng tôi được di chuyển về Song Mao. Một số khác, vài ngày sau được di chuyển về Tà Dôn, Tôi về Song Mao, căn cứ cũ của Trung Ðoàn 53, Sư Ðoàn 23. Ở Song Mao, mỗi sáng chúng tôi 10 người trong một tổ chỉ được một thau cháo. Nhiều anh chàng ăn quá lẹ, làm một lúc vài tô làm nhiều anh em khác đói. Tôi tập ăn cháo nóng đến phỏng cả miệng để đưa ra thực hiện nguyên tắc công bình. Tất cả đồng ý, chia đều cháo cho nhau, mỗi người một chén rưởi.

Tháng 9/1976, tôi được thả về. Trước ngày thả một số chúng tôi, anh cán bộ “lên lớp”: “ Ở trong này tròn bảy, méo ba. Về địa phương tròn ba méo bảy. Nếu các anh không muốn trở lại đây thì ráng giữ im lặng, im lặng ngay cả khi vợ mình lấy cán bộ”. Tôi thấy lòng đau đớn. Không phải tới giờ này, tôi đã hiểu từ lâu “Cộng Sản thì như thế _ hoàn toàn từ chính sách mà ra”.

Khi về nhà, tôi mang trong đầu ý định vượt biên. Tôi không đi đâu cả, chỉ “sáng vác cuốc đi, chiều vác về”. Tôi chỉ điểm liên lạc cho em ttrai tôi. Em tôi thường xuyên báo cáo tình hình. Cuối cùng, chúng tôi tìm được ghe vượt biên vào tháng 9/1977.



Những dòng chữ này không ghi nhận đầy đủ về Phan Thiết trong những ngày hấp hối. Tôi hy vọng nó là một khía cạnh nhỏ, một bầu trời quanh tôi để nhìn lại, để thương Phan Thiết, thương miền Nam Việt Nam và thương sự tự do của đất nước trước năm 1975.

Những dòng chữ này còn để tri ân người lính VNCH. Tôi đã từng không quan tâm đến họ trong thời thơ ấu. Tôi cũng không trách ai hời hợt trong khi tôi là lính.

Tâm tình này hướng dẫn tôi trong mọi hoạt động đấu tranh tại Hải Ngoại. Niềm vui của tôi là việc đưa lá cờ vàng trong các ngày lễ tại Ðịa Phương và gần đây, tượng đài chiến sĩ Việt Úc được thực hiện và đặt ngay trong công viên quốc gia Kings Park, Tây Úc. Tượng đài đang thay tiếng đòi hỏi danh dự lại cho QLVNCH.

LÊ VĂN THẮNG
ÚC CHÂU

Thiết Giáp QLVNCH Picture


Hội Đồng Đế Họp Mặt

Ðồng Ðế Nha Trang họp mặt lần thứ 9
Tuesday, September 11, 2007



medium_DongDe 1.jpg

Cùng nhau cất lên tiếng hát nhớ về quân trường. Ban hợp ca cựu SVSQ Ðồng Ðế và thân hữu. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

medium_DongDe 2.jpg

Các niên trưởng gặp lại nhau. Cựu Trung Tá Hải Quân Ðặng Nhân Khang siết chặt tay cựu Thiếu Tá Hồ Ðắc Huân. (Hình Nguyên Huy/ Người Việt)


Nguyên Huy/ Người Việt

Trưa hôm Chủ Nhật 9 Tháng Chín vừa qua, gần 200 cựu sinh viên sĩ quan và thân hữu của quân trường Ðồng Ðế Nha Trang đã có cuộc họp mặt lần thứ 9. Theo chiến hữu Vũ Duy Thêm, đương kim hội trưởng cho biết thì đây chỉ là cuộc họp mặt thường niên của các cựu sinh viên sĩ quan và các cựu quân nhân từng phục vụ hay từng được thụ huấn tại quân trường này. Một đại hội toàn trường sẽ được tổ chức vào năm tới.

Tuy là cuộc họp mặt thường niên nhưng cũng có một số anh em ở xa về tham dự như cựu Trung Tá Hải Quân Ðặng Nhân Khang, khóa 2 Ðồng Ðế từ Houston sang. Giữa bạn bè tay bắt mặt mừng và trong bộ quân phục hải quân trắng muốt, chiến hữu Khang cho chúng tôi biết: “Tốt nghiệp khóa 2 đồng khóa với cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tôi được về hải quân phục vụ trong ngành Giang Ðoàn cho đến ngày ‘đứt phim’. Tôi đã cùng anh em trong hải quân cùng 60,000 đồng bào trên đoàn chiến hạm rời bỏ quê hương tới Subic, Phi Luật Tân và từng phải rơi nước mắt trong lễ hạ kỳ VNCH trên các chiến hạm. Từ ngày đó lòng tôi luôn nhớ về quân đội của mình, những quân trường mình đã được thụ huấn và nhất là tình chiến hữu. Nên ở đâu có đại hội quy tụ được anh em Ðồng Ðế, anh em hải quân là bận đến mấy, tôi cũng phải tìm về gặp lại chiến hữu xưa”.

Anh Phạm Hòa, một cựu quân nhân hoạt động khá tích cực trong sinh hoạt cộng đồng ở Nam Cali cũng cho biết: “Ra trường tôi được về phục vụ tại Nha Kỹ Thuật trong các chiến đoàn của nha. Tôi rất hãnh diện đã từng được thụ huấn tại quân trường Ðồng Ðế. Chính gian khổ trong chiến đấu qua nhiệm vụ của các toán thuộc các chiến đoàn của Nha Kỹ Thuật cho tôi biết rằng những kinh nghiệm chiến trường mà quân trường Ðồng Ðế đã huấn luyện cho tôi khiến tôi hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó. Bây giờ, sau hơn 30 năm không cầm súng chống giặc nhưng lòng tôi vẫn luôn nhớ về những điều đã học hỏi đầu đời tại quân trường xưa. Tôi còn nhớ bức tượng Tưởng Niệm Người Lính tại quân trường có hai câu thơ đề là ‘Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ, em nằm xõa tóc đợi chờ ai’. Chúng tôi còn sống, chúng tôi không thể thao diễn nghỉ, nên còn làm được gì hữu ích cho quân đội cũ, cho cộng đồng, chúng tôi không tiếc công sức”.

Một niên trưởng trong Hội Ðồng Ðế Nha Trang là cựu Thiếu Tá Hồ Ðắc Huân đã cho chúng tôi biết về lịch sử của quân trường Ðồng Ðế. Theo chiến hữu Huân thì Ðồng Ðế vốn là một trường đầu tiên huấn luyện thể dục thể thao. Năm 1954, quân trường Biệt Ðộng Ðội Bãi Cháy ở Bắc dọn vào. Thời gian đầu trường huấn luyện các khóa hạ sĩ quan cho QLVNCH và là nơi cho các hạ sĩ quan ôn tập. Sau đó trường đảm nhiệm huấn luyện biệt động quân và là một trong 3 nơi huấn luyện BÐQ/QLVNCH. Năm 1959, trường hoàn tất khóa 1 Sĩ Quan Hiện Dịch đặc biệt. Ðến năm 1964 thì trường đã huấn luyện được 4 khóa sĩ quan. Sau năm Mậu Thân, chiến tranh lan rộng, trường phải đảm nhiệm thêm nhiều công tác huấn luyện sĩ quan trừ bị trong đó có các sinh viên trường Quốc Gia Hành Chánh và của các quân trường khác gửi sang như quân trường Thủ Ðức. Rất nhiều quân nhân các cấp xuất thân từ Ðồng Ðế đã làm rạng danh cho QLVNCH như cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn hay các sĩ quan xuất sắc như Trung Tá Thủy Quân Lục Chiến Nguyễn Ðăng Hòa, Trung Tá Liên Ðoàn Trưởng Biệt Ðộng Quân Lê Quí Dậu...

Hiện nay, hội cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang được điều hành bởi một số cựu quân nhân xuất thân từ quân trường Ðồng Ðế gồm có hội trưởng là Vũ Duy Thêm, phó nội vụ là Nguyễn Ngọc Bích, phó ngoại vụ là Trần Vĩnh Xuân, tổng thư ký là Trần Nam, thủ quỹ là Phan Lượng và một ban cố vấn gồm các niên trưởng như cựu Ðại Tá Ðặng Văn Sơn, cựu Thiếu Tá Hồ Ðắc Huân, cựu Thiếu Tá Chu Trọng Ngư. Hội đã xuất bản được 6 số đặc san và tổ chức được 9 kỳ đại hội vào Tháng Bảy 1998, Tháng Chín 1999 Tháng Chín 2000, Tháng Chín 2001, Tháng Tám 2002, Tháng Tám 2003, Tháng Tám 2004, Tháng Chín 2005, Tháng Chín 2006 và năm nay 9 Tháng Chín 2007. Trong tương lai gần hội đang xúc tiến việc trợ giúp cho các TPB của Ðồng Ðế và chương trình cho tuổi trẻ Hậu Duệ Ðồng Ðế Nha Trang. (N.H.)

Chiến Trường An Lộc


2007/09/12

DD 765 Khóa 10B/72 PiX

Dong De Hop Mat 2007

Đồng Đế Nha Trang Họp Mặt: Ca Hát, Ôn Những Kỷ Niệm Tù Việt Báo Thứ Tư, 9/12/2007, 12:02:00 AM

Buổi họp mặt Đồng Đế.

Santa Ana.- Vào lúc 12 giờ trưa chủ nhật ngày 9 -9-2007 tại nhà Hàng Emerald Bay, hơn 200 Quan Khách, Đại Diện các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các Quân Binh Chủng bạn, và đại gia đình Đồng Đế Nha Trang tham dự buổi họp mặt hằng năm theo truyền thống của Quân Trường. Sau phần nghi thức thường lệ, Bản hợp ca Quân Trường Đồng Đế Nha Trang do ban văn nghệ Quân Trường trình diễn mở đầu cho buổi họp mặt, tiếp theo Ong Vũ Duy Thêm Hội trưởng đã lên ngỏ lời chào mừng quan khách và tất cả qúi vị có mặt. Ong thành thật tri ân những tình cảm mà qúi vị đã dành cho Hội chúng tôi. Ong cũng nhấn mạnh trong tinh thần tương trợ thân hữu nên những năm qua hội vẫn tiếp tục thực hiện cứu trợ những Anh Em còn kẹt lại quê nhà, ngoài ra Hội cũng thường xuyên tham gia vào những công tác chung của Cộng Đồng.

Ong cũng xin mọi người trong đại gia đình Đồng Đế Nha Trang hãy dành một phút để tri ân và tưởng nhớ những chiến hữu vừa từ giả chúng ta. Ong cũng thông báo thư của Đại Tá Đặng Văn Sơn cựu Chỉ Huy Trưởng Quân Trường Đồng Đế Nha Trang vì lý do sức khoẻ không về tham dự được cùng Anh Em.

Được biết Quân Trường Đồng Đế Nha Trang là nơi đã đào tạo hàng loạt những Hạ Sĩ Quan để cung ứng hầu hết cho các Quân Binh Chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong thời gian nầy trường cũng đã đào tạo nhiều khóa Sĩ Quan Hiện Dịch, mãi đến năm 1968 vì nhu cầu chiến trường nên trường cũng đã nhận và đào tạo hàng loạt các khóa sĩ quan trừ bị để kịp thời cung cấp cho các Quân Binh Chủng.

Sau đó chương trình văn nghệ bắt đầu với những bản tình ca về lính được trình diễn qua những giọng ca thật xuất sắc, xen lẫn những chuyện kể về kỷ niệm những ngày tù, phần văn nghệ tiếp diễn với buổi cơm thân mật mọi người vừa ăn vừa nghe hát và kể chuyện cho nhau nghe trong bầu không khí thật vui nhộn của một ngày họp mặt cuối tuần. Cuối cùng Ban Tổ Chức cũng thông báo cho tất cả mọi người biết ai muốn có CD buổi họp mặt nầy hãy liên lạc về Ban Tổ Chức số điện thoại 714 878-5528 Ban Tổ Chức sẽ gởi đến để biếu qúi vị làm kỷ niệm.

TOAN CONG TAC NKT


Attached

Goc Chien Truong Xua


GOC CHIEN TRUONG XUA / DAI HOI DONG DE

medium_DongDe.jpg


Hình bên: Trưa hôm Chủ Nhật 9 Tháng Chín vừa qua, tại nhà hàng Emerauld Bay, các cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang thuộc nhiều khóa khác nhau đã họp mặt lần thứ 9. Trong dịp này, chủ tịch hội là chiến hữu Vũ Duy Thêm đã loan báo đại hội toàn trường lần 2 sẽ được tổ chức vào năm tới. Trong hình là các cựu SVSQ trong ban chấp hành và niên trưởng trong các khóa.

Cuối tuần qua, các cựu sinh viên sĩ quan Ðồng Ðế Nha Trang đã có cuộc họp mặt lần thứ 9 tại hải ngoại. Nhân dịp này Trang CCB/Người Việt xin được trích đăng lại đôi dòng tiểu sử về một quân trường lớn của VNCH. Ðây là một phần bài bút ký của cựu SVSQ Ðồng Ðế Trần Ðình đăng trong Ðặc San Ðồng Ðế Nha Trang số 6 năm 2006.

Quân trường Ðồng Ðế khởi đầu từ một trường biệt động đội nhỏ bé, sau trở thành một quân trường lớn, một quân trường kiểu mẫu, một lò luyện thép của QLVNCH, đa năng, đa nhiệm, có khả năng mở nhiều khóa huấn luyện khác nhau, đảm nhiệm những trách vụ khác nhau, từ huấn luyện biệt động đội, thể dục, võ thuật, cận chiến, bổ túc hạ sĩ quan, đào tạo hạ sĩ quan, huấn luyện căn bản quân sự cho SVSQ hải và không quân, đến đào tạo sĩ quan hiện dịch và trừ bị, và đã hoàn thành được nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Ðó là nhờ công lao, lòng nhiệt thành cùng tinh thần phục vụ cao của các vị chỉ huy.

Quân trường Ðồng Ðế có quá trình 20 năm lịch sử hoạt động không ngừng nghỉ gắn liền với chiều dài chiến tranh VN, đã tạo được những thành tích không nhỏ trong nhiệm vụ thực hiện công tác quân huấn, đã chu toàn tốt đẹp các khóa huấn luyện được giao phó. Là một quân trường huấn luyện biệt động quân đầu tiên, và nhất là đã đào tạo được trên 100,000 hạ sĩ quan ưu tú, 1,800 sĩ quan hiện dịch, 12,000 sĩ quan trừ bị, góp phần không nhỏ vào việc phát triển và nâng cao hiệu năng tác chiến của QLVNCH.

Trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lược miền Nam, đã có nhiều chiến binh các cấp từ quân trường Ðồng Ðế khi ra trận địa đã giữ tròn lời thề trung thành với tổ quốc, đã chiến đấu rất kiên cường dũng cảm, đã hy sinh cho lý tưởng tự do, đã nằm xuống vĩnh viễn trong lòng đất mẹ VN như cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí, cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, cố Ðại Tá Cao Văn Ủy và các cựu Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Quái Ðiểu TQLC, cựu Trung Tá Lê Quý Dậu, liên đoàn trưởng BÐQ v.v... đang định cư ở Hoa Kỳ sau hàng chục năm trong ngục tù cải tạo của CS.

Rồi bất ngờ thế cuộc xoay chiều đổi hướng, đồng minh ngoảnh mặt, Hiệp Ðịnh Paris chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình tại VN bị phản bội, biến cố bất hạnh 30 Tháng Tư 1975 ập đến, Bắc Cộng tràn vào đánh chiếm cả miền Nam, Saigon thất thủ, VNCH sụp đổ, Nha Trang mất, ngôi trường Ðồng Ðế lọt vào tay kẻ thù, hàng triệu người trốn chạy CS bỏ nước ra đi, hàng triệu người đổ xô ra biển. Chiến hữu Ðồng Ðế, kẻ mất người còn, vượt biển, vượt biên, bị CS trả thù, đày đọa trong lao tù tối tăm bi thảm 5 năm, 10 năm, 15 năm. Ngày mai, tương lai, hy vọng mịt mù... vô vọng.

Rồi ngày tháng qua đi, ngờ đâu vận may lại đến, ngọn lửa ngày mai, tương lai, hy vọng lóe lên, chiến dịch nhân đạo (Humanitarian Operations) ra đời từ bàn tay rộng mở của nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ sau đó. Những chiến binh VNCH trong các trại tập trung dưới chế độ CS dần dần được can thiệp ra khỏi nhà tù CS và cùng với gia đình sang được Mỹ hoặc các quốc gia tự do khác trên thế giới, định cư từ 1991. Do đó các cựu chiến binh VNCH có cơ hội gặp lại nhau nơi hải ngoại trong nỗi mừng vui khôn siết.

Sau cơn mưa trời lại tạnh

Qua cơn giông tố mịt mù trời lại sáng

Chiến tranh nào rồi cũng có ngày tàn

Cuộc chiến VN đã tan

Nhưng tình chiến hữu vẫn thiết tha gắn bó.

Từ tâm nguyện đó cùng với ý chí của anh em tù nhân cải tạo nên đã hình thành được những hội ái hữu các quân binh chủng và các quân trường của QLVNCH ở hải ngoại vào những năm đầu thập niên 90 cho đến nay trong đó có quân trường Ðồng Ðế Nha Trang.

Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang khởi điểm là do một số anh em cựu SVSQ khóa 1 cùng tìm đến nhau tại quận Cam, Nam California Hoa Kỳ rồi hình thành ban đại diện khóa vào đầu năm 1997 để lo việc sinh hoạt và tương trợ nhau đồng thời cùng hợp tác với nhau trong việc tìm kiếm, liên lạc nối kết các chiến hữu đồng môn cựu SVSQ các khóa 1, 2, 3, 4 sĩ quan hiện dịch, các khóa sĩ quan trừ bị cùng các niên trưởng đang định cư tại các tiều bang Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới nhằm mục đích liên kết lại với nhau thành một tập thể có tổ chức để làm sống lại tình Huynh Ðệ Chi Binh và tương thân tương ái trong cuộc sống tị nạn CS tại hải ngoại.

Kết quả đến đầu năm 1998 đã nối kết được gần 200 anh em cựu SVSQ các khóa rồi bầu được ban đại diện khóa, ban đại diện toàn trường để lo chuẩn bị cho ngày họp mặt cựu SVSQ Ðồng Ðế vào giữa năm 1998 để sau đó tiến hành lập Hội Thân Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang.

Ngày họp mặt đầu tiên mang chủ đề “Họp Mặt Tình Nghĩa” được tổ chức vào ngày 26 Tháng Bảy năm 1998 tại thành phố Santa Ana quy tụ được 200 anh em và gia đình trong đó nhiều niên trưởng và thân hữu cũng có mặt. Trong đại hội này anh em đã tiến hành thành lập hội và bầu ra các phần hành điều hành hội.

Năm sau đại hội tình nghĩa của anh em cựu SVSQ Ðồng Ðế đã quy tụ được 300 người trong đó có tới 40 niên trưởng và cựu cố vấn trưởng của trường là Ðại Tá Lewis Millett cũng từ xa về tham dự. Cựu Ðại Tá Phạm Văn Sơn, cựu chỉ huy trưởng Ðồng Ðế đã chủ tọa lần đại hội này.

Mục đích của đại hội là gắn kết, phát huy tình chiến hữu huynh đệ và tương thân tương ái giữa các các cựu chiến sĩ đã một thời thụ huấn tại trường Ðồng Ðế Nha Trang, thông qua nội quy của hội, thực hiện đặc san làm tiếng nói của hội và bầu các phần hành điều hành hội trong nhiệm kỳ 3.

Từ đó, mỗi năm một lần đại hội để các cựu SVSQ và những ai đã từng được thụ huấn ở quân trường này về họp mặt cùng nhau. Sau 9 năm hoạt động (bài viết này viết năm 2006) hội đã tổ chức được một ngày họp mặt toàn trường, 7 đại hội thường niên. Tất cả đều mang chung một chủ đề là “Ðại Hội Tình Nghĩa”. Bên cạnh đại hội, hội cũng còn tổ chức hàng năm các cuộc vui tất niên tân niên đúng như nội quy qui định là “Lấy tình nghĩa Huynh Ðệ Chi Binh và lý tưởng tự do làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, nối kết tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bậc cũ đã một thời phục vụ hay thụ huấn tại Ðồng Ðế Nha Trang thành một tập thể có tổ chức, nhằm duy trì và phát huy tình huynh đệ đồng môn đồng trường để tương thân tương ái, chung vui sẻ buồn với nhau trong cuộc sống tha hương nơi hải ngoại”.

Cựu SVSQ Ðồng Ðế

Trần Ðình

The Landing Zone


Gunship Phi Doan 219


Quan Truong Dong De


Dinh Kem

Hinh Anh Quan Luc VNCH


Dinh Kem

2007/09/10

Hinh Anh Chien Tranh


Attached

Mien Dat Cuoi

Vui buồn đời lính
Miền đất cuối
Minh Vủ K10B/72
Ðể tưởng nhớ các bạn SVSQ Ðồng Ðế đả vỉnh viển ở lại “Miền đất cuối” của quê hương. .

Dạo đó khoảng năm 1973.. tôi theo đơn vị đi hành quân ở khu vực giáp ranh giửa hai tỉnh Bạc liêu và Cà mau thuộc vùng 4 chiến thuật .Nơi nầy hoang vu, toàn là đầm lầy nước mặn, những bải sình non và rừng cây mắm ngút ngàn…Dân cư thưa thớt, đi gần cả buổi mới gặp được một gò đất cao có vài căn nhà lợp lá dừa nước, nghèo nàn, trống trước trống sau, bên hông của mổi căn nhà thường thường có một hay hai cái lu chứa nước mưa để uống, thính thoảng gặp được một xóm nhà chừng vài chục cái, thường thường là tọa lạc gần nơi ngỏ ba hay bên bờ các con sông, con kinh lớn, nơi đó có một hai cái quán cốc bán tạp hóa trông thiếu thốn èo uột..
Dân vùng nầy sống bằng nghề nông, câu tôm cá và bắt cua, phương tiện di chuyển của họ là chiếc xuồng ba lá nhỏ để len lỏi trôi nổi tới lui ở những đường nước, nơi những mương rạch chật hẹp ; có khi họ dùng một miếng ván mỏng khoảng ¼” chiều dầy, 1’ chiều ngang và dài độ 3’ . Ðàn ông mặc chỉ có chiếc quần đùi, cởi trần, phụ nử mặc áo bà ba màu bùn đen ngắn tay, mặc quần đùi, có khi quần dài săn vén lên hơn khỏi đầu gối, một bên vai đeo cái giỏ đựng cá đan bằng nan tre, họ đứng bám chân vào miếng ván và uốn mình lấy thế để cho miếng ván luớt đi qua những bải bùn non rộng lớn mênh mông trông giống như dân các xứ lạnh trợt tuyết mùa Ðông.
Bọn lính tráng chúng tôi đầu đội nón sắt, vai mang ba lô, mang súng đạn, di chuyển qua những bải sình, chân bước từng bước nặng nề ..,không thể mang giầy boot da cổ cao như lính ở các miền khô ráo đồi núi cao nguyên mà mang giầy vải buột dây, cổ thấp hoặc giầy map làm bằng vải nylon nhẹ, không hút nước ..,vậy mà đi qua những bải bùn có khi giở chân lên ..chiếc giầy bị lún sình ..không chịu lên theo ..! Càng cố dầm mình xuống nước tìm chiếc giầy thì lại càng tạo cơ hội tốt cho đám đỉa trâu bu lại hút máu . Ðỉa ở đây nổi tiếng nhiều như ..bánh canh, con nào củng to hơn ngón tay cái, màu nâu xám, có con thì màu đen, hai bên hông có viền lằn vàng óng ánh.., anh nào đẹp trai, hào hoa phong nhả được khoảng ba, bốn nàng đỉa đeo theo thì không tài nào trách khỏi …xây xẩm mặt mày. Lính đi hành quân vùng nầy phải ..chấp nhận thương đau , phải chấp nhận hiến máu và ..tắm sình như cua trong hang ; bùn sình non bám vào áo quần, gặp nắng lên khô lại ví như mình đang mặc bộ giáp sắt .
Sông rạch chằng chịt, dân chúng di chuyển đó đây theo những thủy lộ lớn nhỏ .Quân di chuyển bằng xuồng ghe thì dể bị VC phục kích tấn công, những đường nước cạn khi thủy triều xuống không thể dùng xuồng ghe tàu thuyền, dân địa phương sáng chế ra một loại xuồng gắn máy đuôi tôm chiều ngang nhỏ, nhưng có chiều dài để len lỏi, lao lách đi qua các con rạch chật hẹp gọi tên là “vỏ vọt” hay “tắc ráng”, nhưng lắm lúc tắc ráng củng không thể hoạt động được khi nước quá cạn . Lính đi trên bờ đất thì sợ đạp lôi, đạp mìn bẩy, đạp lựu đạn của VC gài , hể nghe một tiếng nổ “ùm” vang lên là ..chắc chắn có người đạp mìn hay là bị vướng lựu đạn. Bị nặng thì…giả từ quân nhân, giả từ vủ khí, giả từ cuộc đời ngay tại chổ, còn nhẹ thì ..gởi tặng lại miền đất cuối một hay hai chân hoặc là một tay, một mắt . Khổ sở và tội nghiệp, đau lòng khi nhìn thấy cả người lính bị thương mất một phần thân thể đang oằn oại đau đớn rên la lẩn người lính còn lành lặng đang cố gắng è ạch khiên bạn đồng đội của mình trong hoàn cảnh, địa thế khó khăn tới một chổ khô ráo đủ điều kiện cho phi cơ trực thăng tải thương đáp xuống được để bốc thương binh và xác chết, có khi thương đả chết trước khi được trực thăng đến bốc.

Trực thăng tải thương

Ngoài khu vực rừng Uminh là căn cứ địa sầm uất của VC, rừng rậm, đầm lầy và hiểm trở, nơi ấy để dưởng quân và hậu cần tiếp tế hơn là đánh đấm, ngoại trừ khi bị quân ta tấn công . Các đơn vị VC ít khi nào đụng độ với quân ta ở cấp đơn vị lớn cở trung đoàn . Thường thường là chạm nhau ở cấp tiểu đoàn và đại đội. Binh sỉ người Việt một số ở những miền khác bị động viên vào quân đội được điều động đến đây, một số là người dân địa phương có cả người Việt gốc Miên vào lính được phục vụ gần nguyên quán,
thỉnh thỏang các binh sỉ người Việt gốc Miên nói chuyện với nhau bằng tiếng “nước ngoài” mình nghe không hiểu gì hết .
Lợi dụng địa thế sẳn có,VC đánh du kích nhiều hơn là trận địa chiến, lối đánh nầy gây …nhức đầu cho quân ta vì nó đa hình đa dạng, mình không biết địch ở đâu , khi nào là VC, khi nào là dân thường và ta có thể bị họ tấn công bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu ..và bằng đủ mọi cách. Mình là người Việt nam mà còn không biết nổi VC trá hình lúc ẩn lúc hiện thì thử hỏi quân đội đồng minh của các nước sang Việt nam làm sau mà biết nổi …lúc nào VC là dân và lúc nào dân là VC ..!?
Một lần nọ bắt được 2 người tù binh VC, tôi bảo người lính mở trói, tôi móc bao thuốc lá ra hút và chìa bao thuốc ra mời 2 người tù binh, tôi vừa quay lưng đi thì nghe có tiếng súng nổ, quay lại, tôi nhìn thấy một trong 2 người tù binh đang oằn oại trên vủng máu, còn người kia thì đang bị hai người lính đè người xuống đất .Lợi dụng lúc được cởi trói , một trong hai người tù binh đả toan giật quả lựu đạn đang mang trên mình của một anh lính đang đứng gần đó định cho nổ tung .
Có lúc đơn vị của tôi bắt sống được vài anh du kích VC, họ bị trói thúc ké, hai cùi chỏ bị buột ra phía sau lưng, đi chân đất, mặt quần đùi, người mặt áo, người ở trần, mặt mài sưng vù vì bị đánh đập tra khảo … tôi nhìn mà cảm thương cho họ, nhưng tôi không thể giúp gì được .Chiến tranh..phải lạnh lùng và có lúc..mình củng phải tàn nhẩn nửa ..! Chỉ tội thương cho người dân quê hiền lành chất phát là nạn nhân muôn đời cho thời cuộc loạn ly của đất nước .

Tù binh du kích việt cộng

Ở những nơi xa xôi hẻo lánh ..gần cuối con đường quê hương bùn mềm nầy có nhiều người chưa hề được nhìn thấy bóng đèn điện, trong khi loài người đang sống trên cùng một mảnh đất chỉ cách nơi đây vài chục cây số ở các nơi khác đả và đang hưởng tiện nghi vật chất hơn , ở nơi xứ sở khác đả và đang có một đời sống văn minh vật chất hiện đại sung túc từ lâu , đả phóng người đi thám hiểm lên đến mặt trăng . Ði đến những nơi khỉ ho cò gáy nầy mới chứng kiến tận mắt cái nghèo khổ của người dân quê, họ đả sống cùng cực thiếu thốn hơn sự tưởng tượng của mình, có nhiều gia đình còn đống khố bằng bao bố hay vật dụng khác có được .Chiến tranh đả tạo nên những vùng đất của quê huơng tuy gần ..mà xa xôi thăm thẳm không ai muốn đi tới, không ai muốn biết và để ý đến, những con người không được may mắn sinh ra và lớn lên ở những nơi đó củng bị quên lảng như những bải đất hoang vu bùn sình họ đang ở. Tôi gặp một gia đình hai vợ chồng chỉ có một bộ quần áo bà ba màu đen quí nhất, thay phiên với nhau chỉ mặc vào những dịp quan trọng như đi đó đây, còn con cái thì mình trần cả ngày hì hụp ngụp lặng nơi những chổ có nước để bắt tôm cá .., cuộc sống của họ thật là đơn giản, ngày hai bửa chỉ lo được no bụng.

Bùa ngải, tin hay không tin ?

Một lần hành quân bắt được đám người tình nghi VC . Trong đám có một cụ già để râu càm dài đến ngực, khi được tra hỏi, cụ khai là cư dân cư ngụ vùng nầy đả lâu và là “thầy bùa lổ ban”. Ban 2 của tiểu đoàn (ban quân báo) nghe vậy bèn trình lên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, lúc đó tôi là sỉ quan hành quân của tiểu đoàn . T/tá TÐT của tôi còn trẻ, ông 32 tuổi, vì muốn tò mò tìm hiểu thật giả ra sao, ông bèn ra lệnh cho dẩn ông cụ tới để ông tra hỏi …,đứng hiện diện tại đó ngoài tôi ra còn có mặt một vài sỉ quan khác cùng một số lính tráng theo bảo vệ .
T/tá TÐT hỏi liền khi vừa gặp ông cụ,
-Ông già .. ông là thầy bùa lổ ban hả ..bùa phép gì của ông linh ứng thế nào .. ông có thể làm cho tôi xem được không?
Ông già đáp lời ngay,
-Trình thiếu tá ..nếu ông muốn xem thì tôi xin làm cho ông xem ..
Nói đoạn ông cụ đảo mắt nhìn quanh khu vực chổ chúng tôi đang đứng. Không có gì cả , ngoại trừ có vài miếng lá tạm bợ dùng che cái nhà tắm dả chiến gần bờ sông . Ông cụ xin phép được đi đến nhà tắm gần bờ sông . T/tá TÐT đồng ý và phái một người lính đi theo ông đến nhà tắm .
Bọn tôi đứng im lặng theo dỏi xem ông cụ làm gì ..
Ông đến cái cửa nhà tắm lấy ngón tay trỏ vẻ vẻ chi đó một vài cái, đoạn lăm răm nói gì đó, không nghe được …
Năm phút sau ông trở lại đứng trước mặt chúng tôi và nói,
-Nào ..bây giờ tôi muốn T/tá cho một người mang nước vào trong đó tắm, khi trở ra T/tá và các ông sẻ thấy có những điều lạ ..tôi không nói trước.
T/tá TÐT củng bán tin, bán nghi, ông nhìn sang chúng tôi như muốn dò hỏi ý, không thấy có ai lên tiếng .. Ông xoay qua người lính đi theo ông cụ lúc nảy và ra lệnh ,
-Thằng Tín, mầy lấy cái thùng xuống sông sách nước vào tắm cho tao coi ..
Tín dạ, vâng lệnh thi hành .
Tín vào xối nước tắm độ vài phút thì mở cửa trở ra …mình trần không mặc quần áo .., Tín giậc mình quay trở vào …, rồi lại đi trở ra như củ, Tín cứ lập đi lập lại nhiều lần như vậy..
Ông cụ từ từ đi dến nhà tắm dùng ngón tay trỏ vẻ vẻ chi đó và lăm răm khấn ..,Tín trở ra khỏi cửa nhà tắm lần nầy có mặc quần đùi .
-Thằng Tín đến đây . T/tá TÐT lên tiếng ra lệnh.
-Dạ . Tín đáp lời và tiến đến trước mặt chổ ông TÐT và chúng tôi đang đứng ..
T/tá TÐT lên tiếng hỏi,
-Tại sau mầy cởi truồng đi ra vào nhà tắm vậy ..giởn mặt hả?
-Dạ …thưa T/tá ..em nhớ ..em có mặc quần mà ..,khi ra khỏi cửa nhà tắm mới biết mình chưa mặc quần, em trở vô mặc quần lại ..rồi khi ra khỏi cửa mới thấy chưa mặc quần ..em trở vô mặc quần lại .. chớ em đâu dám giởn mặt thiếu tá và các sỉ quan ở đây ..
Ông cụ nhìn anh lính tên Tín rồi quay sang hỏi T/tá TÐT,
-T/tá có muốn cho một người khác vào nhà tắm nửa không ?
Một ông hạ sỉ người Việt gốc Miên đứng gần đó giơ tay tình nguyện,
-Xin phép T/tá cho tôi đi ..
-Ðược rồi, mầy vào thử xem . T/tá gật đầu chấp thuận.
Anh hạ sỉ lấy cái thùng xuống cây cầu gổ cạnh mé sông múc đầy thùng nước và đi vào nhà tắm, miệng tươi cười nhìn đám người đang quan sát có vẻ tự tin .., một lúc sau anh trở ra ..khoe cái thân hình ..mốc khến đen thui đen thủi không một mảnh vẻ che ..và củng lập đi lập lại những động tác của anh lính tên Tín lúc nảy . Ông cụ củng lại vẻ vẻ và lăm răm khấn cho anh trở ra .. được che lại .
Lần nầy thì T/tá TÐT ra lệnh cho thượng sỉ tên Mân, một người thân tín của ông lấy cái thùng múc nước vào nhà tắm ..Thượng sỉ Mân trong vài phút sau củng …khoe của quí đi ra đi vào ..tạo cho mọi người đang có mặt đứng nhìn có được những trận cười hả hê ..
Ông cụ củng phải đến …cứu Th/sỉ Mân , xong ông đến truớc mặt T/tá TÐT hỏi,
-Nào ..bây giờ T/tá có muốn thử không ?
T/tá TÐT không trả lời ông mà ông quay sang hỏi mọi người đang đứng,
-Sao ..quí vị sỉ quan ..có ai muốn ..thử không ?
..Im lặng, không có ai lên tiếng .., ông vừa cười, vừa chửa thề bâng quơ nho nhỏ, đoạn nói với ông thầy bùa lổ ban,
-Ông già, tôi tin ông có buà …nhưng mà .. ông đừng có dùng bùa ngải để hại người ..tôi tha cho ông đi .
Ông già cám ơn, cáo từ và quay lưng đi .

Muổi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh

Thanh niên ở những miền khác của đất nước bị ngọn gió chinh chiến cuốn đến xứ nầy ai củng lo xa mang theo thuốc xức tránh muổi cắn, tránh đỉa đeo .Tôi củng có lần bị thiên hạ ..hù rằng muổi ở xứ cuối đường quê hương to bằng ..con gà mái, muổi kêu như sáo thổi, đỉa lội như banh ..mà quả có thật là muổi kêu như sáo thổi , muổi con nào con nấy to bằng hạt lúa và có màu vàng nâu .Hành quân vào những vùng sâu, ban đêm mắc màn (mùng) ngủ mà lở thò tay ra khỏi màn thì muổi bu đầy như phủ lên tay lớp sơn màu vàng nâu đậm, dùng bàn tay kia vuốt tay bị muổi đeo một cái thì cảm thấy ..nhớt nhợt và từ màu vàng nâu xậm đổi sang nước sơn màu máu đỏ.
Tôi có tính ..sợ đỉa, cho nên tôi lúc nào tôi củng có một người lính đi sau lưng để kiểm soát “quân phong quân kỷ” nhìn từ lưng cho tới chân để bắt đỉa .


Lội dưới nước, đỉa đeo nhiều khi mình không có cảm giác, phần tâm trí tập trung đề phòng địch quân phục kích tấn công, vả lại đỉa đeo , bám vào quần áo lính vải dầy củng khó mà hút máu được, trừ khi đỉa chui vào ống quần và ..từng bước từng âm thầm đi ngược lên miền thượng . Ðang đi mà cảm thấy ..ngứa ngứa ..ở đâu đó, phản ứng tự nhiên là thò tay gải gải nơi chổ ngứa, nếu ngón tay có cảm giác chạm phải cái khố u nho nhỏ và mềm mềm.., đích thị là đỉa đang bám ...,nếu đang ở dưới nước thì ..phải rán gồng mình hiến máu chờ leo lên được bờ đất mới ..tuột quần ra bắt đỉa . Mấy anh chàng ..sợ đỉa như tôi , sợ đỉa hơn sợ .. con gái, khi biết mình đang bị đỉa đeo thì quýnh quán đi nhanh tìm chổ khô ráo như ..gà mắc đẻ và tuột quần với một tốc độ ..phi thường để bốc con đỉa ra khỏi thân thể của mình , nhiều khi gặp con đỉa ..loại chằng ăn không bám ở những chổ dể thấy mà chui vào những vùng ..bất khả xâm phạm khiến cho kẻ bị hiến máu không tài nào tìm ra mà phải ..khổ sở nghiêng mình đủ các thế để nhờ bạn đồng đội bắt đỉa dùm, tôi nhìn mà không thể nín ..cười được. Củng may cho tôi, chưa có lần nào biểu diển các các màn sexy..nóng bỏng và không lấy tiền như vậy cho thiên hạ xem ..
Khổ cho thân lính bộ binh miền sình lầy sông rạch ,mổi lần đi hành quân bước ra phải dầm mình cả ngày dưới nước .Những ngày tháng nắng thì đở rét, gặp phải những tháng gió bấc cuối năm trời lạnh , 4giờ sáng đả chuẩn bị cơm nước ăn cho no bụng rồi mang ba lô nón sắt súng đạn bắt đầu di hành, đường hành quân phải lội nước, vượt qua sông rạch, qua những bải sình rồi lại lên bờ quần aó ướt đẩm, gặp gió hiu hiu thổi ..lạnh rùng mình. Tôi đi hành quân ngoài bộ quần áo lính, đầu đội nón sắt, còn mặc thêm chiếc áo giáp nặng trình trịch mổi lần từ dưới nước bò lên bờ nước thấm vào áo giáp cả vài kí lô, tôi không gồng gánh theo ba lô và đầy đủ cấp số đạn dược như các binh sỉ khác mà củng cảm thấy muốn …lết bánh ; sau nầy tôi .. điếc không sợ súng nửa, không mặc áo giáp, đầu chỉ đội nón sắt và khoác lên mình chiếc áo ba-dờ suy để che gió lạnh. Ông thượng sỉ quân y thấy vậy tặng cho tôi một hộp thuốc viên calcium, mổi sáng trước khi xuất hành tôi uống vào 2 viên để chóng lạnh .


Thà chết giửa rừng mai …

Nhưng bị đỉa cắn, bị muổi cắn chỉ trong chốc lát thì mình lấy lại bình thường, còn tỉnh táo để mổi lần có phép còn biết đường đi về thăm nhà chớ bị ..con gái xứ nầy “cắn”… là hết biết đường về nhà !
Ði hành quân trong rừng sâu thì bị đỉa đeo, muổi đeo theo cắn. Ðóng quân ở nơi những chổ có nhà dân chúng hoặc là lâu lâu được nghỉ dưởng quân mò về chơi nơi thị trấn có chợ búa ..không khéo giử mình sẻ bị các cô gái ..cắn cho một ..vết đau ngọt ngào thấu tận tới tim …
Mấy ông quan trẻ tuổi đi chinh chiến miền xa lúc nào củng hấp dẩn không những đối với các cô gái mà còn được cảm tình luôn cả những người lớn tuổi .Các cô hảnh diện được có bạn, người yêu hoặc chồng là sỉ quan . Các ông các bà nhà có con gái đến tuổi cặp kê hảnh diện trong tương lai được làm ông bà già vợ của quan, cho nên khi đặt chân đến vùng đất nầy tôi đả được nghe câu nói truyền khẩu vừa triêu chọc các cô gái,
“Thà chết giửa rừng mai ..,còn hơn chết trong tay cánh gà “ .
Rừng mai có ý ám chỉ cấp sỉ quan, đeo bông mai theo cấp bực.
Cánh gà là các anh hạ sỉ quan từ trung sỉ trở lên đeo chử V bên tay áo có hình dạng như cái cánh gà bị chặt trước khi bỏ vào nồi nước xôi luộc chín để ..nhậu.
Em nào gặp “quan” ..mắt củng chớp chớp, đi đứng sửa tướng làm dáng để mong .. được lọt vào mắt xanh của mấy ông quan trẻ ngơ ngác lâu ngày hành quân miệt mài trong rừng rậm ít khi thấy bóng đàn bà. Các quan già củng ..ké được những “hường nhan” dư thừa củng đám quan trẻ . Các em không cần biết “ quan “ đả có người yêu, có vợ con hay chưa, cứ lăn xả vào vòng tay của “quan” và vui sướng được ..dẩy chết ..giửa rừng mai, rồi sau đó ..tới đâu thì tới…,kết quả là vùng nầy đả sáng tác ra một bài hát sửa lời nháy theo bài hát “Những đồi hoa sim” của nhạc sỉ Dủng Chinh mà không biết ai là tác giả,
“Những đồi hoa Sim..,
ôi, những đồi hoa Sim.. tím chiều hoang biền biệt …
vào chuyện ngày xưa nàng yêu ông Thiếu úy có bầu nên ..phá thai …”
Không biết ông Thiếu úy nào đả..
“gởi lại cái …nón sắt bên bờ lao xậy nầy..
bây giờ anh ở đâu ..!? ”
…đang xông pha nơi rừng sâu núi thẳm
hay đả về bên kia chân trời xa tấp ..
mà ..
Con ảnh ương vẩn gọi tên anh…,nghe như tiếng thở dài ..”

Một số các quan trẻ đến từ thành phố, ở rừng lâu ngày đả quên đi ..mùi thơm son phấn của thành thị hay vì vướng bụi quân hành và mải mê quanh quẩn với rừng lá thấp, với bùn sình lầy lội của kẻ lảng du đời sương gió ở “cưối con đường quê hương bùn mềm …thương những chiều nắng dọi bờ sông ..” , rồi có mặc cảm thành thị đả quên mình rồi, nên…an phận chuộng nét đơn sơn mộc mạc của miền đồng chua nước phèn đỏ ….Gọi là nước phèn đỏ là vì nhúng mình xuống nước đôi ba ngày, bộ quần áo sẻ đổi sang màu vàng nâu xậm, màu phèn ..
Có một lần ông tướng Nguyển vỉnh Nghi tư lệnh Quân Ðoàn IV đến thăm đơn vị tôi, ông nhìn thấy chúng tôi từ quan tới lính người nào củng ..vàng khè từ chân tới ngực, ông đả lưu ý nói với người sỉ quan tùy viên việc nầy, một tuần sau khi ông viếng thăm, chúng tôi được cấp phát thêm quân trang mới .

Người yêu của Lính

Tôi có người bạn tên Phát, lúc trước học ở Khoa học có “đào” học bên Sư phạm trông nỏn nà đẹp đẻ .Chàng và nàng yêu nhau ra rít thuở còn đi học, sau khi Phát bị động viên đi lính, nàng thường xuyên có mặt trong đám thân nhân đến quân trường gặp gở người yêu .Khi Phát ra trường đổi đi đơn vị tác chiến, họ ít khi gặp gở, chỉ liên lạc qua thư từ …
Một lần dừng quân nơi ở xóm nhỏ xa xôi, Phát đả bị thôn nử tên Nở cắn và ..Phát cắn lại trả đủa .Nở đả tự nguyện trở thành tù binh tình ái, thỉnh thoảng trốn gia đình đến thăm Phát ở nơi đóng quân của đơn vị tôi, hai người chia sẻ gói cơm xấy, hộp cá mòi quân tiếp vụ, đêm tối chất chung vỏng, sống với nhau như vợ chồng..


Tôi và Phát thân nhau, cùng đơn vị và.. cùng quê, hai thằng ở khác đại đội, nhửng ngày không có công tác hay đi hành quân, hai đứa thường gặp nhau ngồi tán dóc, nói chuyện trời trăng mây nước cho đở buồn đời lính trận xa nhà .
Có lần tôi tò mò hỏi Phát chuyện yêu đương,
-Mầy định bắt cá hai tay hả ..?
Phát kéo thuốc lá một hơi dài, thở phì nhả khói vừa nói,
-Không …,lần tới về phép tao dẩn Nở theo ra mắt ông bà già tao ..
Tôi hỏi Phát,
-Còn con Liên ..,mầy ..tính sao .?
Phát trầm buồn, đưa mắt nhìn về hướng lô cốt chằng chịt hàng rào kẻ gai một lúc ..rồi chậm rải thố lộ tâm sự của mình,
-Tao yêu Liên lắm, nhưng ..Liên giờ ..chỉ là cái bóng thôi !Nở mới thật sự là vợ của
tao ..,vì Nở đả thấy con người và cuộc đời thực của tao, cuộc sống thực của tao ..Nở
đả yêu những cái ..hiện có của tao và chấp nhận chia sẻ cuộc đời sương gió của tao
..rất thực thà, không so đo, cân nhắc…
-Mầy có lần nào cầu hôn với Liên chưa?
-Lúc trước còn đi học và sau khi vào quân trường …tao củng có ý định nầy, nhưng
sau đó ..tao dẹp ..không nghỉ tới .
-Vì sao ?
-Hồi xưa thì khác, bây giờ thì khác . ..Tao không nói xấu đám con gái ở thành
phố..,nhưng mầy củng phải công nhận là họ ..khi yêu thì đi tìm những chàng trai hào
hùng, có đủ nét phong sương phong trần .. để thỏa mản những mộng mơ và ..chỉ để
cặp tay dạo phố thôi, chớ lấy chồng thì cô nào củng tìm mấy anh chàng nước da trắng
bóc, mặt ..bún ra sửa, dân được miển dịch vì mọi lý do, có bằng cấp , có nghề
nghiệp vửng vàng để ..” một bước lên xe hơi, em khỏi phí cuộc đời” …,còn như nếu
lấy Lính..thì củng là lính “tác chiến” ..trong thành phố, lính không quân, hải quân, cảnh sát, lính lúc nào củng mặc quần áo ủi hồ láng coóng chớ ngu sao mà chịu làm hòn vọng phu hoá đá , hay là theo chồng đến những nơi như vầy .. đêm ngủ nằm ghế bố, nằm vỏng nhà binh.
Tôi nghe Phát nói mà chạnh lòng với cái hiện tại chẳng đặng đừng phải chấp nhận, tôi nói với Phát và củng tự an ủi mình,
-Mấy cô ở thị thành quen ngủ nằm giường nệm êm ái, chỉ biết có chiếc giường nệm thôichớ chưa thử …ngủ vỏng nhà binh, nằm đong đưa trên vỏng nhà binh củng êm á bềnh bồng và đê mê lắm …,lại còn được nghe âm thanh của tiếng súng từ xa vọng lại như tiếng đàn guitar đi solo ..,rồi thỉnh thoảng nghe tiếng nổ ùm ùm của đạn pháo như tiếng bass đệm…,bản nhạc hòa tấu nầy đâu phải nơi nào củng có..
Phát giọng trầm buồn , chia sẻ tâm trạng với tôi,
-Tao lúc mới ra đơn vị, tối nằm nghe loại nhạc nầy …tim đập mạnh, cứ thao thức khó
ngủ ..,tao để cây M16 đạn lên nòng kế bên, gài chốt an toàn với lại dây ba chạc gắn
mấy băng đạn và vài trái lựu đạn đế sẳn .., giờ thì quen rồi, đêm nào không nghe ..thấy
buồn .
Tôi hỏi Phát,
-Chừng nào mầy đi phép ?
-Hai tháng nửa . Tao định một lần đến thăm Liên ..chào giả biệt .
-Mầy nghỉ Liên sẻ buồn khi chia tay với mầy không?
-Không …,hai đứa xa mặt đả lâu, tao nghỉ củng đả xa cách lòng vả lại Liên củng đâu có
hứa hẹn chờ tao .Ở thành phố có biết bao nhiêu thằng nhởn nha nhở nhơ đi theo em
tán tỉnh ..,khó tính đến đâu thì ..trong 10 thằng đi theo ít ra củng có một thằng trông
bắt mắt coi được hơn 9 thằng kia, lúc mình vắng mặt , nó cứ lếch tới lếch lui sáng đưa
chiều đón, cứ ca bài con cá sống vì nước thì làm sao mà em không xiêu lòng…,mình ở
xa không có được cái lợi thế như mấy thằng ở gần. Không chừng gặp lại Liên.., thấy
em đả tay bế tay bồng …
Tôi nói với Phát,
-Mầy ..có nhiều tưởng tượng và bi quan quá ..
Phát lên giọng quả quyết,
-Ðó là sự thật . Mình phải tỉnh táo mà nhìn thấy, nếu không sẻ khổ vì vở mộng sau khi
biết được sự thực phủ phàng nàng đả âm thầm ôm dầm sang thuyền khác không một
lời từ giả …
Tôi cười, vừa nói với Phát,
-Mình tìm chổ trao thân gởi phận trước cho chắc ăn hả ?
Phát cười tán đồng ý kiến,
-Ðúng vậy đó bạn, tiền thì có thể san sẻ cho mọi người sài, nhưng tình thì không
được ..,mà đả vướng vào tương tư thất tình ..thì bạn ráng mà ôm ..sài một mình.
Phát đả có cách và có chổ để giải quyết tình cảm của mình hợp thời và thực tế với hoàn cảnh hiện có …,tôi không biết điều nầy có làm cho hắn thật sự được thoải mái và an ổn trong tâm tư hay không . Cái bức bình phong người thôn nử tên Nở có đủ sức để chắn được những trận cuồng phong như bảo táp thổi tới tấp làm cho xiêu vẹo gải cành cây mơ trong lòng hắn ..? những cơn sóng cao ngất dồn dập cuốn đi ngôi lầu đài trên bải cát trong lòng hắn ? Hình ảnh yêu kiều của Liên cùng với chuổi ngày dài kỷ niệm của mối tình học trò thơ mộng bỏ lại thành phố sau khi hắn xếp áo thư sinh từ giả kinh kỳ, làm bạn với gió sương trên bước đường quân hành ngày đây mai đó..?
Tôi liên tưởng đến những tâm tư thầm kín của mình đang cất dấu trong lòng…
Cả một khung trời kỷ niệm ngày rời thành phố tôi mang theo trong lòng không biết mỏi ..củng nặng nề chẳn kém chiếc ba lô nhà binh tôi mang trên vai, không biết rồi đây những ngày sắp đến sẻ ra sao ..? Sẻ có một ngày tôi còn được may mắn đứng ở bến sông nhìn bóng dáng người thương của mình cầm dầm “nhảy” sang thuyền khác hay là nàng “phi thân” một cách âm thầm nhẹ nhàng và êm ái không nghe tiếng động như các nử tài tử Hồng kong đóng phim đánh chưởng quần áo nai nịch gọn gàn, sau lưng mang thanh trường kiếm nhún mình một cái toàn thân bay bổng lên mái nhà…
Nhảy hay là phi thân , cách nào ..tim tôi củng bị trúng phi tiêu có tẩm độc do nàng phóng ngược lại, chất độc sẻ từ từ ngấm vào máu và tôi sẻ tha hồ mà rên rỉ, tận hưởng đau thương , ôm con tim rỉ máu mà không ai chia sẻ được với tôi món quà tặng đặc biệt nầy..
Phát nhìn tôi dò hỏi,
-Nhật Hạ còn gởi thư đều cho mầy không?
Tôi thở dài, trả lời Phát,
-Còn ..,nhưng thư viết rất vắn tắt . Có lúc thì nói đang bận học thi, có lúc thì nói tại tay
đau không viết nhiều được, có lúc nhờ người chị viết dùm …
- …….
Phát làm thinh, móc gói thuốc ra đưa cho tôi lấy một điếu, nó lấy một điếu đặt lên môi
đoạn châm lửa cho tôi và nó.
Tôi hít một hơi dài rồi nhả khói, vừa thả tâm sự với Phát,
-Lần về phép kỳ rồi tao đến nhà em, hai đứa đi ciné, ăn kem, đi bát phố..
-Vậy thôi hả ..? Phát hỏi.
-Ừ …
-Có để lại cho em những kỷ niệm nào đáng nhớ không?
-Ðại khái thôi …
Phát nóng lòng hỏi,
-Mầy nói rỏ chi tiết cho tao nghe có được không ?
Tôi đáp lời Phát nửa kín nửa hở,
-Thì ..ai làm sao ..tao làm vậy ..
Phát như bị cuốn vào câu chuyện, hỏi nhanh,
-Ðịch có phản ứng gì không…?
-Không ..,chỉ có du kích bắn lẻ tẻ bắn cầm chừng cho có lệ ..
-Phe ta có nổ súng không ?
-Có.., 1 whisky .. được băng bó tại chổ.
Phát cười khoan khoái, lên giọng dạy đời,
-Vậy ..mầy đáng được thưởng Anh dủng bôi tinh với ngôi sao ..chì. Nhưng mà như vậy ..không ổn, địch quân sẻ phục kích đơn vị bạn để trả thù vì .. đả xung trận, đả đổ máu, đả ngửi được mùi thuốc súng mới hăng hơn lúc chưa đụng trận ..
Tôi củng phụ họa thêm,
-Như vậy ..thì hên cho đơn vị bạn nào đóng quân gần đó ..
Phát vừa cười, vừa nói,
-Hay không bằng hên đó mầy, mấy thằng lù khù có ông cù độ mạng .
Tôi nói giọng xụi lơ, vừa thất vọng và tiếc rẻ với Phát,
-Ðộ mạng hay không độ gì ..thì tụi nó củng được vô mánh tốt, chớ ở hậu phương còn ai
nửa đâu ..? Thằng chột mắt đương nhiên được làm vua ở cái thế giới mù ..Trông được
trai, không xức cẳng gải gọng như tao với mầy thì đả được tổng thống chiếu cố…

Phu nhân ông Tiểu đòan trưởng của tôi năm đó đúng 18 tuổi. Bà alfa còn trẻ măng, nử sinh học lớp 11 của trường trung học Cà mau.., nghe nói bị alfa xỏ mủi dẩn đi năm 17 tuổi.
Từ khi rước được nàng về dinh, alfa đả cất kỷ phu nhân, gởi về ở nhà làm dâu cho ông bà cụ, còn ..thỉnh thoảng tối tối nằm chung vỏng với alfa nghe ban nhạc “chiến chinh” hòa tấu thì đả luân phiên thay đổi có các người yêu của lính.
Lâu lâu bà alfa hạ cố đến thanh tra, thăm chồng vào những lúc đơn vị về nằm dưởng quân ở hậu cứ tiếu đoàn, mấy thằng em theo hầu alfa phải làm việc overtime dọn dẹp chiến trường không bỏ xót một manh giáp nào, kể cả một sợi tóc rụng.
Bà alfa nước da trắng, gương mặt tròn trỉnh, dáng dấp nử sinh qua mái tóc thề thướt tha buông xỏa bờ vai ..,vẻ mặt trông ngây thơ con gái, phản phất nét e ấp sẻn lẻn như cảm giác có ai đó biết được mình đả nếm chút mùi đời .
Cứ mổi lần phu nhân đến thăm, alfa hảnh diện dắt đi ..duyệt binh, chào các sỉ quan tham mưu và binh sỉ trong tình huynh đệ chi binh, nhưng cặp mắt thì làm việc không ngừng để đề phòng đám quan trẻ độc thân ngưởng mộ phu nhân đang thầm lặng thả những tia mắt khó hiểu nhìn ngắm chầm chập ..
Alfa tuy tuổi đời mới ngoài 30 nhưng gương mặt dầy dạn phong trần, nước da thắm sương nắng và bụi quân hành trông như ông cụ non cở 50 lấy lên, ông còn có cái tật thích ngậm ống vố, chắc là thói quen đả lâu của các quân nhân tác chiến hút thuốc ban đêm để che đóm lửa lóe sáng lên mổi lần hít, nếu không VC ẩn núp đâu đó nhìn thấy tàn thuốc cháy, nhắm bắn sẻ ..bể gaó dừa như chơi .
Phu nhân đứng gần ông nhìn giống như hai cha con ..! nhưng alfa vẩn còn mang tâm hồn của trai mới lớn. Ông rước đào nhí về nhà làm vợ, điều đó đủ chứng minh ông chỉ ..trông héo có cái vỏ bề ngoài chớ mọi thứ bên trong vẩn còn ngon lành . Nhưng có ai mà biết được những ưu điểm đó của người đàn ông, các cô gái đa phần chỉ nhìn đám đàn ông con trai qua diện mạo mặt mủi với những lời nói ngọt ngào hứa suông hứa cụi và bộ quần áo bề ngoài.
Alfa hơn được những thanh niên trẻ khác nhờ ..xâm mình và ve áo nhà binh có cái bông mai bạc nằm hiên ngang trên tấm p-s-p vàng khè bên dưới. Ông biết đàn hát văn nghệ nghêu ngao, ông chơi guitar classic 5 ngón một vài bản ruột, người mới nghe qua cứ tưởng ông là một nhạc sỉ nhà nghề. Ở hậu cứ của tiểu đoàn củng như lúc đi hành quân, ông luôn luôn có thằng em kề cận lẻo đẻo đi sau lưng, không mang súng mà quảy cái thùng đựng cây đàn guitar và lúc nào củng lao chùi bóng loáng . Lúc điều quân đánh giặc, lên máy liên lạc với các đại đội ông chửa nhoi trời, từ quan tới lính , má của thằng nào củng bị ông ..”làm” láng ! nhưng khi hết giặc, dừng quân, ông hiền ..như ông Cha , nói năng ngọt ngào, ngồi đánh đàn lủm bủm ..và thả hết tâm hồn cất lên lời ca chan chứa qua những bản nhạc tình ướt nhẹp mà người nghe như có cảm tưởng ông đang tran trải, đang xì hơi xả bớt cho đở căng phòng cái nổi lòng thầm kín nào đó ..cho nhẹ người .
Cứ mổi lần cầm đàn lên dạo .., giọng của ông khàn khàn nhưng tha thiết,
“Anh vuốt tóc em,
Anh vuốt tóc em một lần cuối, một lần cuối cùng rồi thôi …
Anh ngắm trăng thanh trên má em xanh..một lần cuối ..,như những lần đó xa xưa ..
Em khóc bên vai anh …em khóc bên vai anh
một lần cuối ..,một lần cuối cùng
Ðể còn thấy gần nhau lần cuối ..
Một lần cuối cùng thôi em ơi!
Một lần cuối cùng thôi em ơi ..!
Thế là mải mải xa nhau
Thế là nước mắt thương đau
Thế là mải mải ..và mải mải tình sầu …”

bản nhạc mà ông thường hát nhất, ông hát nhiều lần, hát hoài đến nổi tôi nghe thuộc lòng, bài “Một lần cuối” của nhạc sỉ Hoàng thi Thơ . Ông trung úy trưởng ban 3 nghe riết bản nhạc nầy đâm ra phát chán, ông nói giởn với tôi,
-Con nào vô phước làm đào của ông đạo vuốt ..chắc một hai tháng trở thành ni cô, lông tóc rụng mẹ nó hết ..!
Có khi đả quá nửa đêm tôi lại nghe ở bên hầm chỉ huy của ông có tiếng đàn và tiếng than thở văng vẳng một mình,

“Vết lăn ..vết lăng trầm…
hằn trên phiến đá ..nấu thêm ưu phiền.
Như có lần ..tình buồn hằng dấu chân..
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về
Quê nhà rộng đôi cánh tay chờ mong ..
Người chợt nhớ ..mình như đá .., đá lăn, vết lăn buồn ….
….. ..
Thôi ..ngủ yên đi con, ngủ đời yên đi con
Che dấu thân đau dạ mòn …
Ngủ đời yên đi con..,như vết thương đau ngủ buồn…
…………………..
Rồi một hôm ..chợt thấy hoang vu quanh mình ..

Tôi và alfa có cái duyên ..văn nghệ . Một bửa nghỉ dưởng quân ở căn cứ, tôi xa quê hương nhớ.. đào già, mang cây harmonica ra làm vài bản cho đở buồn, tình cờ ông đi vòng vòng kiểm soát doanh trại nghe được tiếng kèn ai oán bèn tìm đến ngồi nghe . Ông rủ tôi về hầm chỉ huy chổ ông ở, ông mang cây guitar ra khoe với tôi và biểu diển cho tôi nghe một vài bản ruột romantic mà tôi biết . Ông nói chuyện với tôi rất nhiều về thời trẻ của ông, ông còn khoe cho tôi biết ông có 2 cô em gái hiện đang học đại học Văn khoa ở Sàigon.
Tôi từ một người trung đội trưởng tác chiến được ông kéo về cho làm sỉ quan phụ tá hành quân lấp vào thế chổ cho một sỉ quan tại chức vừa giả từ quân nhân, giả từ vủ khí trong một cuộc hành quân chạm địch hồi tháng rồi, với chức vụ nầy tôi lúc nào củng kề cận, theo bộ chỉ huy tiểu đòan lúc đi hành quân củng như lúc về căn cứ đóng quân của tiểu đoàn . Tôi ăn cơm chung với ông hằng bửa khi đi hành quân củng như lúc nghỉ quân, trừ những ngày phu nhân của ông đến thăm, tôi viện cớ .. đi chổ khác chơi để cho ông được có những giờ phút riêng tư với bà xả, mặc dù tới bửa ăn ông cho lính đi tìm tôi gọi ơi ới . Tôi là người được nghe ông hát củng như nghe ông chưởi nhiều nhất , vì các sỉ quan khác củng như lính tráng đâu có ai ở gần bên ông ngoài ông trung úy trưởng ban 3, tôi , ông trung sỉ I trực máy và mấy thằng em lính theo phục vụ cơm nước , sai vặt . Khi ông bực bội chưởi đổng thiên hạ, tôi và ông trung úy trưởng ban 3 nghe dùm người ta đầy lổ tai..
So về nhan sắc thì alfa thua là kể chắc, không sánh được với mấy ông quan trẻ tuổi mới vừa nhuốm chút phong sương bụi chiến chinh, nhưng còn phản phất nét thư sinh nho nhả .. . Alfa đả từng xông pha nơi chiến trường và tình trường, đả kinh nghiệm ra chiến trận phải nắm vửng tình hình địch và bạn, đánh nhau không phải lúc nào củng thắng, lúc nào cần phải “chém vè” , lúc nào phải ” bỏ giò lái ”, lúc nào thả trinh sát bò đến chiếm cứ những yếu điểm quan trọng, lúc nào ào ạt tấn công chiếm mục tiêu ..và “trói thúc ké, bịt mắt tù binh” thế nào cho an toàn khi bắt được, vì nếu chỉ sơ ý lơ đểnh trong một vài giây phút thì hậu quả khó lường như ông đả từng san sẻ những kinh nghiệm thực tế đó với tôi và các bạn lính khác.

Bà alfa củng như phu nhân, người yêu của các sỉ quan, hạ sỉ quan và binh sỉ ở xa lâu lâu đến thăm chồng thường thường là vào những ngày đầu tháng để tiện việc sổ sách. Các ông lính vừa mới lảnh lương hôm trước, hôm sau các bà ùn ùn kéo tới thăm .Một hai đêm chất chung nằm ngủ ghế bố nhà binh hay kẻo kẹt chung vỏng để trút bầu tâm sự rồi sáng dậy sớm ôm trọn hồ bao dong mất, trong khi các ông lính vẩn còn đang ngẩn ngơ cơn mộng du …
Lính mừng bà xả, mừng người yêu xa “biệt kinh kỳ” đổ đường tới thăm mình có mang theo cái “sự đời” để trao đổi chuyện đời, lính buồn vì quí phu nhân đến thăm chồng lại cầm theo “cây cờ đỏ”, khiến cho lính phải đành… phơi củ cải, mặt mày nhăn nhó như khỉ ăn ớt …

“Quân lực Việt Nam Cộng Hòa,
Ðàn ông đi lính, đàn bà lảnh lương “
tội nghiệp cho đám đàn ông vừa đi lính ngày đêm lặng lội với gió sương với hiểm nguy mà còn phải lo nuôi vợ nuôi con ở hậu phương. Lở không may hy sinh thân mình đền nợ núi sông thì vợ được lảnh 12 tháng lương tiền tử .Bà vợ già nào có con cái đông thì phải chịu nheo nhóc nuôi con thờ chồng, quả phụ nào còn son trẻ, tươi mát, ướt át thì ..tương lai bước thêm một bước nửa để tìm người bạn đời khác,
“Thiếu úy nhìn em ..thiếu úy cười ..
Em nhìn thiếu úy …lệ em rơi,
Chồng em mới chết thiếu úy ơi !
Lương 12 tháng , em lảnh đủ
Lảnh lương rồi mời thiếu úy tới chơi.”
Trong hàng ngủ sỉ quan, cấp quan thiếu úy có lắm chuyện ..
Nào là,
-“Vào chuyện ngày xưa…
nàng yêu ông thiếu úy, có bầu nên phá thai.. !”
rồi ..củng ông thiếu úy giàu lòng thương người châm châm nhìn người quá phụ còn son trẻ..cười tình lúc chồng của người ta vừa mới chết ..,khiến cho nóng rang mình mẩy, i ta bước đi mà ..quíu chân chịu không nổi phải hứa hẹn,
“lảnh lương rồi mời thiếu úy tới chơi ..!”

Quan chuẩn úy ,thiếu úy được quí phụ nử để ý tới nhiều là vì xứng đôi vừa lứa so với tuổi tác. Ða số quan thiếu úy tuổi trong khoảng 22-25, gió bụi chiến chinh chưa phủi sạch được nét thư sinh còn ẩn hiện phản phất trên gương mặc son trẻ , là lính mới, mang súng ống mới, đa số còn độc thân, còn ôm bầu nhiệt quyết, còn lý tưởng, còn lảng mạn mộng mơ, còn yêu đương nồng nhiệt và tha thiết . Lên cấp Trung úy thì đả có tuổi đời, tuổi lính, thịt da đả ngấm gió sương, hơi lẩn thẩn một chút, thỉnh thỏang không nhớ mình đả ..bỏ quên cái “nón sắt” trên bờ lao sậy nào ? “nòng súng” bắt đầu rỉ sét, đả có chút kinh nghiệm và ít nhiều đụng chạm với đời, có một số đả lập gia đình , tìm được anh nào còn độc thân thì anh đó ít nhất củng đả trải qua một hai mối tình dang dở hoặc đang có người yêu. Bên xứ mình thuở đó ít nghe ai nói đến tình trạng pê đê trong lính . Từ cấp đại uý trở lên thì đại đa số ông nào hoa củng đả cắm bình, vợ con đầy đàn ,đầu củng đầy sạn, không dể dàng chớp mắt đưa tình mà được nhận lại như đưa cho thiếu úy hay trung úy, đưa cho đại úy..coi chừng mất luôn cả chì lẩn chày.
Các cô truyền miệng nhau,
“Lấy anh thiếu úy còn thơ
Anh đi đánh giặc, mình chờ lên lon
Ba năm chinh chiến anh còn
Trở về mai nở véo von với đời….”

“Lấy anh thiếu úy còn thơ
Anh đi đánh giặc mình chờ lên lon
Lở mà thiếu úy không còn ..!
Em thành quả phụ còn son lo gì …

Thấy anh trung úy em thương
Nhưng em ..còn ngại gió sương cuộc đời..!

Miền đất cuối thoạt nghe cứ ngở là chỉ có bùn sình muổi mồng và đỉa vắt. Con gái ớ xứ muối ngoài các thôn nử vì sinh kế phải dầm sương dải nắng , bị tàn phá dung nhan, đa số các cô trắng trẻo dịu dàng dể thương và rất văn nghệ đa tình lảng mạn, có cả một vườn thơ và trong hòan cảnh nào củng ..phóng thơ ra cho được . Mơ củng thơ, mộng củng thơ, yêu củng thơ mà ..chồng chết củng thơ thẩn .

Sống hùng, sống mạnh, sống không dai …

Tôi ra trường mang cái Quay chảo (lon Chuẩn úy nhìn giống như cái quay chảo), về trình diện đơn vị chung với 11 người bạn cùng khóa . Chưa đến 6 tháng mà đả có 5 người ..quá giỏi, được đặc biệt lên cố thiếu úy trước bạn bè . Rồi từ từ tụi nó củng lủ lượt kéo nhau lên lon .
Một năm rưởi sau đúng ngày con kén trở thành tầm, bông búp nở thành hoa theo danh sách chính thức của bộ Tổng tham Mưu gởi xuống đơn vị chỉ còn có 3 thằng , 2 thằng còn đang táy mái với súng đạn, một thằng ngồi xe lăn, bất khiển dụng vì đả gởi lại chiến trường sình lầy một chân.
Tôi may mắn được alfa kéo về BCH của tiểu đoàn, sau hơn một năm nắm trung đội trưởng, tôi đả nướng mất 4 thằng em. Ði theo BCH tiểu đoàn mổi lần hành quân, tôi đi ớ giửa , lính thì cầm súng ,còn tôi thi cầm bản đồ địa bàn và ống liên hơp truyền tin liên lạc với các đơn vị bạn và các đại đội . Trước sau, phải trái đều có quân, nếu có chết thì lính chết trước rồi mới đến tôi, trừ trường hợp bị pháo rớt nổ ngay BCH , chớ nếu không ..,có lẻ tôi củng đả được “ lên lon giửa hai hàng nến lung” từ lâu .
Cứ mổi lần xung trận các đại đội rải quân đi trước, các ông trung đội trưởng là những người cầm quân hứng đạn , cho nên đa số các tân sỉ quan mới ra trường nắm trung đội , đó là một thử thách nguy hiểm . Ai vượt qua được trong 6 tháng đầu , không được tổ quốc ghi ơn tặng cho Anh dủng bội tinh với nhành dương liểu và đặc cách thăng chức cho lên “cố” là khá rồi, sau đó rút tỉa kinh nghiệm xương máu, học hỏi thêm cách né đạn. Nhưng đạn tránh mình chớ mình đâu có thấy đạn đi đường nào mà né .Sự hiểu biết và kinh nghiệm tác chiến học hỏi từ quân trường chỉ là cơ bản nhỏ nhoi so với thực tế đầy những tình huống phức tạp của chiến trường. Người lính nào củng đả thắm nhuần câu,
“Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”,
đả gắng công ra sức tập luyện ..tuy nhiên chơi dao có ngày đứt tay, giởn với súng đạn hằng bửa thì củng gặp ngày súng đạn giởn lại với mình ..
Nhớ lần đụng trận đầu tiên , đạn đi âm thanh nghe véo véo trên đầu mà tôi cứ như điếc không sợ súng, cứ dỏng lưng đi tới, lính tráng cứ tưởng đâu ..gặp người hùng thứ thiệt ! Ông hạ sỉ I mang máy truyền tin phải kéo tôi nằm xuống tránh đạn, rồi một lần khác, đạn bắn xuống mặt đất ..xịt bụi lên, tôi lại lom khom định nằm xuống, xém chút nửa là đạn xuyên qua nón sắt bể gáo dừa .
Trong chiến tranh, con người ở 2 phía thù địch đả suy nghỉ ra nhiều phương cách để tiêu diệt lẩn nhau rất quỉ quyệt và tàn nhẩn không bút mực nào tả cho hết..,khi giao tranh nơi chiến trường đôi bên xử dụng những vủ khí đạn dược , bom đạn có sức công phá mảnh liệt hủy diệt nhau cho đến vận dụng mưu kế sắp đặt mìn bẩy hầm chông ,chất độc hóa học.
Chiến chinh lửa khói

Tôi đả nhiều lần đứng lặng người nhìn những cổ quan tài bao phủ lá cờ vàng 3 sọc đỏ .Bạn bè và những người lính cùng đơn vị của tôi nằm trong đó an giấc nghìn thu mà thi thể kẻ thì mất đầu mất tay, người banh ruột vở lồng ngực, thân thể còn lắm tấm bùn sình vừa được lấy xác từ chiến trường về và những người lính chung sự tạt nước xối rửa sơ sài trước khi tẩn liệm . Tôi đả nhiều lần đứng lặng, câm họng không thốt nên được một lời gì để an ủi những người vợ, người mẹ, người thân của các bạn bè, chiến sỉ trong đơn vị hy sinh đền nợ nước.
Lần sau cùng tôi rời khỏi đơn vị nơi đả để lại cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên, củng là lần tôi đứng nghiêm đưa tay rung rung chào vỉnh biệt trước linh cửu của alfa, cấp chỉ huy và củng là người anh trong quân đội đả dìu dắt tôi, kề cận tôi ,chia sẻ hiểm nguy, vui buồn đời lính . Bà alfa đầu chít khăn tang trắng đứng ôm đứa con nhỏ còn đỏ hỏn chưa đầy tháng khóc thút thít ở một góc bên những tấm liểng và tràng hoa phúng điếu chia buồn cùng gia đình người quá cố. Tội nghiệp đứa bé chưa biết mặt cha thì cha của nó đả ra người thiên cổ.


Giởn với súng đạn là điều chẳng đặng đừng .Alfa đả dầy dạng chiến trường mà củng không né được trái đạn B40 của VC lúc hai bên đánh sáp lá cà, bắn gần khiến cho ông phải mất một phần thân thể, ra đi bỏ lại các chiến hửu của mình, bỏ lại người vợ trẻ và đứa con vừa chào đời chưa kịp thấy mặt.
Trận đó, nếu tôi không đi phép..có lẻ tôi củng đả đi theo alfa về bên kia thế giới . Người lính mang cây đàn không đi theo ông thầy của mình, tôi thấy anh ngồi ủ rủ ở một góc bàn gần đó . Một số sỉ quan lớp chết trận, lớp bị thương nặng nhẹ , đa số binh sỉ chết trận và bị thương nặng chở về nằm la liệt .Thằng Phát thì bị thương nơi tay, tôi vào quân y viện thăm nó và những người thương binh trong đơn vị đang nằm điều trị .
Gặp tôi Phát vui mừng nói,
-Ê, Hotel ..mầy hên lắm đó ,nếu không mầy lên lon trước tao là kể chắc. (tên tôi chử H,
trong đặc lịnh truyền tin chử H gọi là Hotel).
Ðm ..,tụi nó tới 2 tiểu đoàn quyết lòng dứt điểm mình ..,tụi tao xả láng
hết kẹo, hết lựu đạn rồi sáp lá cà múa kiếm như ciné ..
Tôi thấy Phát trong giờ phút nầy mà nó củng còn giởn được, nên hỏi đùa với nó,
-Mầy múa kiếm với VC cái hả ?
Phát cười méo xẹo nói,
-Phải gặp VC cái củng đở ., đâu có kiếm đế đâm tao . Ðm ..,tao vật lộn
với cái thằng chết bằm ..,nó để cho tao một nhát .. đau thấy mấy ông trời,
tao củng ..lịch sự tặng lại nó một nhát, nó nằm xui cò .
Chợt Phát nghiêm mặt lại, giọng buồn hỏi tôi,
-Mầy đả xuống nhà vỉnh biệt chưa?
-…Rồi ..Tôi đáp nhỏ .
Phát nhìn tôi tròng mắt đỏ hoe, im lặng một lúc rồi nói,
-Ðm ..kỳ nầy theo ông theo bà hết ráo .. Ðám thằng Trường bên đại đội 2 củng tiêu
luôn .. Tiểu đoàn của mình chắc phải đi hấp lại ..
Tôi im lặng nhìn Phát , mình nó chỉ mặt có chiếc quần màu xanh lam của bệnh viện, cởi trần, một cánh tay đang quấn băng trắng và lỏm chỏm băng keo dán trên mặt, trên ngực để che đậy những vết thương lớn nhỏ vì miển lựu đạn, vì lưởi lê đâm, mà lòng mình quặng đau ..
Phát được trực thăng tìm thấy và mang nó về cứu sống kịp lúc.
Tôi lo lắng cho Phát , tôi hỏi nó,
-Mầy có tin cho gia đình biết mầy vào đây chưa ?
-Chưa, tao không muốn ..,sợ ở nhà lo.
-Cô Nở có vào thăm mầy không ?
-Có, mổi ngày từ lúc tao vào đây .Từ sáng ở tới tối, bịnh viện đuổi mới về..
Nở mới vừa đi mua thức ăn thì mầy đến .
Thằng Phát củng được an ủi khi có người yêu của lính kề cận chăm sóc, nâng khăn sửa súng, chuyện trò củng đở buồn đời lính xa nhà và trong lúc gặp hoạn nạn. Cô Nở không may mắn vừa đưa tay chạm phải cánh mai ..thì hoa mai đả héo úa thê thảm, nhìn phát chán.., không biết cô có nản lòng không ?
Tôi ngồi nhìn mông lung ra cửa sổ .Hành lang của bệnh viện qua lại những người thương bịnh binh, kẻ chống nạn khặp khểnh, người đang ngồi trên xe lăn , người thì đang ngồi cô đơn nhìn trời hiu quạnh ..Họ đả trở về đây từ các mặt trận và một số đả gởi lại vùng đất cuối con đường quê hương bùn mền nầy một phần thân thể . Thằng Phát và đám người kia rồi đây sẻ được đưa ra hội đồng giám định y khoa phân loại thương phế binh tùy theo cấp độ tàn phế cho giả từ vủ khí …,còn tôi, không biết những ngày sắp đến sẻ ra sau khi mà tôi ngày ngày vẩn còn tiếp tục trao đổi ân thù bằng súng đạn với những người bên kia khác chiến tuyến .
………………………………………………………………………..
Tháng Tư.. dang dở..!

Tôi lái xe honda chở Hoa ra bến xe đò Bạc Liêu để đưa nàng đi Sàigon chuyến xe sớm nhất buổi hôm ấy vào khoảng gần giửa tháng Tư 75, trời vừa hừng đông sáng, phố xá vẩn còn chập chờn chưa tỉnh giấc, hơi sương lạnh phủ đầy lên mặt tôi .Tôi cho xe đi chầm chậm, tay mặt nắm tay lái, còn tay trái tôi nắm chặc lấy bàn tay của Hoa đang ôm choàng qua bụng tôi .., Hoa ép sát người vào lưng tôi ..như để truyền sang cho tôi hơi ấm..,như để bấu víu, níu kéo thêm hơi hướm hạnh phúc mà nàng lưu luyến tiếc nuối vì trong khoảnh khắc ngắn ngủi sắp đến nàng phải tạm lìa xa tôi …
Hoa thì thầm bên tai tôi, tiếng nói của nàng thỉnh thoảng bị tiếng gió ù ù loảng đi, tôi phải hơi nghiên đầu qua kề tai mình gần mặt của nàng,
-Anh à, em đi Sàigòn lâu lắm là một tuần sẻ trở về ..,em cố
gắng thu xếp công việc nếu xong sớm em sẻ về sớm …,chớ
xa anh ..em nhớ anh lắm ..,em không muốn ở trển lâu đâu ..
Tôi xiết mạnh bàn tay của Hoa ..như thầm nói với nàng tôi củng có cùng tâm trạng nhớ thương.
-Em về Sàigòn nhớ ghé lại nhà anh để thăm gia đình dùm
anh nghen …, cả năm rồi anh chưa có phép về thăm nhà ..
-Dạ ..dù cho bận rộn cách mấy …em củng rán thu xếp ghé
thăm để ...ra mắt gia đình của anh mà ..
nói xong Hoa cười khúc khích và tay bóp mạnh vào bụng tôi. Tôi lên tiếng hỏi Hoa,
-Ðịa chỉ nhà của anh đưa cho em, em đả cất vào bóp rồi hả?
-Dạ ..rồi ..Hoa đáp lời tôi .

Tôi vẩn còn lo lắng cho Hoa ra đi giửa lúc tình hình đang trong cơn dầu xôi lửa bổng, nhưng vì công việc buôn bán của gia đình, nàng chẳng đặng đừng phải làm cái công việc mà nàng vẩn phải làm hàng tháng trước đó, trước và sau ngày tôi và Hoa gặp nhau ,hàng tháng nàng phải đi Sàigòn để mua thêm hàng hóa và liên lạc với những dịch vụ có liên hệ đến công ăn việc làm hiện có. Ðây là lần đầu tiên tôi muốn trình diện Hoa với gia đình tôi sau thời gian hai đứa quen nhau .Không như những lần đi Sàigòn trước đó của Hoa, lần nầy tôi cảm thấy lo lắng , không yên trong lòng. Tôi dặn dò Hoa,
-Tình hình đang lúc rối ren lắm ..,em phải cẩn thận nghen..
Nếu mà Việt cộng có phá đường, đấp mô hay giật xập cầu
thì em không nên đi, quay trở lại …
-Dạ ..,em biết ..anh an tâm .
Tôi phụ mang cái valise quần áo và cái giỏ xách tay đựng linh tôm khô, lạp xưởng, khô cá mặn, đặc sản của xứ “muối “ Bạc liêu mà Hoa mua mang theo để tặng cho gia đình tôi lúc nàng ghé thăm lên xe và đặt để vào cái ngăn đựng hành lý, xong tôi ngồi cạnh bên nàng ở cái ghế trống kế bên chưa có ai ngồi .Hoa ngả đầu dựa vào vai tôi, tôi hôn lên mái tóc xỏa lòa xòa của nàng, cố thu hút vào buồng phổi của mình với một lượng chứa tối đa hương vị quyến luyến yêu thương quen thuộc để dự trử cho những ngày sắp đến, khi vắng nàng .. Tôi rời nàng và bước xuống xe sau nụ hôn môi vội vả mà Hoa e thẹn vì..mắc cở, sợ có người chung quanh nhìn thấy, vì ở cái xứ gần tận cùng của đất nước, nơi mà 98% quí bà miệng còn nhai trầu ngỏm ngoản, xỉa qua lại cục thuốc rê ...khi giận ai, lấy cục thuốc chọi vào mặt ,nạn nhân sẻ bị rổ mặt.., mà thấy được một kẻ “dám” biểu lộ tình yêu theo kiểu “Tây phương” trước công chúng, ai củng tò mò muốn nhìn xem nó thế nào …
Tôi đứng lặng nhìn Hoa đang lẩn khuất, lao xao trong đám hành khách ngồi trên chiếc xe đò cho đến lúc xe rời bến .Tôi thấy nàng như cố gượng ngống nhìn lại tôi và giơ tay vẩy nhẹ chào tạm biệt, tôi củng vẩy tay chào lại ..,không biết ngồi trên xe chật nức người chen chúc, Hoa có thấy tôi vẩy tay chào nàng hay không?
Lần vẩy tay chào đó là lần chào vỉnh biệt ..! tôi và Hoa vỉnh viển xa nhau.

Hoa đi rồi, tôi chợt buồn, lo lắng cảm thấy luyến lưu mất mác nàng. Tôi trở lại đơn vị của mình làm việc. Từ ngày tôi bị thương nhẹ trong một lần chạm súng với Việt cộng , nằm ở bệnh viện Bạc Liêu, xuất viện tôi được đổi về phục vụ nơi không tác chiến ở gần thị xả . Phố xá Bạc liêu đối với tôi vẩn còn xa lạ, mặc dù vùng đất “cuối con đường quê hương bùn mềm “ nầy tôi đả in dấu giầy ở khắp mọi nơi trên bước đường hành quân.

“Bạc liêu nắng bụi mưa bùn”

Trong một ngày nắng bụi của thị xả Bạc Liêu, có một người lính trẻ đi chinh chiến miền xa, chiến y và giầy trận đả vướng bụi đường sương gió, nay lại vương vấn vướng thêm… bụi hồng của vùng đất xa lạ.

Tôi gặp Hoa, gia đình nàng có cửa hàng mua bán ở phố chợ thị xả Bạc Liêu nhân một bửa tôi đến mua vài thứ cần dùng và…cảm mến cô bán hàng nên cà kê dê ngổng cho đến lúc cô đóng cửa tiệm, tôi tình nguyện dọn dẹp đóng cửa dùm cô . Cô chủ thấy tôi siêng năng giỏi dắn …cho nên kể từ hôm ấy đả “chấm” tôi, chọn tôi làm người mở cửa và đóng cửa hàng cho cô suốt đời ..và tôi, tôi củng cảm thấy vui sướng, hạnh phúc được làm công việc ấỵ Tôi cảm thấy mình không còn cô quạnh nửa, mổi buổi chiều tôi có được chổ dừng chân nơi cái tỉnh lẻ xa xôi gần cuối dảy đất của quê hương yêu dấu
“Bạc liêu nắng bụi mưa bùn,
Dưới sông cá Trốt, trên bờ Triều Châu”,
như 2 câu thơ dân giả mà tôi đả có lần nghe được khi vừa đặt chân đến đất nầy. Tôi cảm thấy ấm lòng, được an ủi nơi xứ lạ quê người và liên tưởng đến những viển ảnh tương lai hạnh phúc tốt đẹp đang chờ đón mình chớ không như những ngày đầu mới đến đây, tôi rảo bước lang thang giửa phố chợ ...lúc đó, tôi củng không biết mình đi đâu và cứ quanh đi quẩn lại la cà ở nơi các quán cà phê bên vỉa hè, hút vài điếu thuốc lá lẻ .. .
Hoa đi Sàigòn được 3 ngày thì quốc lộ 4 bị cắt đứt ở địa phận tỉnh Long an , nàng không thể trở về Bạc liêu được, đành phải nán lại Sàigòn chờ.
Sau khi Tổng thống Dưong văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh yêu cầu tất cả quân đội buông súng, tôi củng cùng chung số phận như các Quân, Cán, Chính của miền Nam Việt nam, âm thầm tự động rả ngủ trong tâm trạng hoang mang bức xức ….
Sáng ngày 30/4/75 bộ đội và du kích Việt cộng địa phương vào tiếp thu tỉnh Bạc liêu ; đàn ông , đàn bà, con nít đi chân đất, vai mang súng AK lủ lượt kéo nhau tiến về các cơ quan chính quyền Tỉnh để “tiếp thu”; một số dân cách mạng 30 tay mang băng vải màu đỏ đi tới lui để hướng dẩn . Tôi đứng bên lề đường nhìn làn sóng người hổn độn vừa đi vừa chạy vô trật tự trên con đường chính của thị xả mà lòng quặn đau cho một cuộc đổi đời và những viển ảnh tương lai đen tối sắp đến của đất nước nầy không biết sẻ đi về đâu?
Tôi đến nhà của Hoa từ giả Mẹ cùng các anh chị em của nàng tôi trở về Sàigòn . Rạng sáng sớm hôm sau, tôi cùng người bạn lính đón xe honda ôm đi ra bến xe để về Sàigòn . Chúng tôi phải nhiều lần xuống xe, đổi xe, trút bỏ các giấy tờ và đồ đạc mang theo, chỉ giử lại tấm căn cước dân sự để trình cho đám ngườì đứng dọc đường mang súng AK sét hỏi . Sau khi qua bắc Mỷ thuận vào khoảng 6 giờ chiều cùng ngày, xe đi một đổi nửa đến Long Ðịnh- Mỷ tho thì khúc lộ bị chắn ngang, tất cả xuống đì bộ . Tôi về đến Sàigòn vào khoảng rạng sáng hôm sau . Dọc đường đi, tôi nhìn thấy xác chết nằm ngổn ngang, xác xe cộ cháy, cảnh đồ đạc vung vải của người bỏ của chạy lấy thân.

Gia đình tôi vui mừng thấy tôi còn sống sót trở về trong cơn biến
loạn.
Sáng hôm sau, cả nhà quay quần chung quanh chiếc bàn tròn ăn sáng, mẹ tôi như sực nhớ, bà quay sang tôi nói,
-Hai tuần trước có cô Hoa ..nói là bạn của con ở Bạc liêu đến
thăm ba mẹ .., cô bé thật là dể thương ..
-Dạ đúng , con có nhờ cô Hoa đến thăm gia đình mình ..
Mẹ tôi nhìn tôi, bà tiếp lời,
-Con nói thật cho ba mẹ nghe ..con đả có tình ý gì với Hoa
chưa .., để ba mẹ thu xếp đến gặp gia đình của Hoa .
Không có gì qua mắt được mẹ của tôi, tôi đành phải thú thật cho gia đình tôi biết tôi và Hoa đả yêu nhau .Cả nhà tôi ai củng tán thành .Ba tôi nói,
-Chờ vài hôm nửa tình hình yên ổn, ba với con đi Bạc Liêu.
Tôi nghe ba tôi nói mà rộn rả trong lòng ..
Tôi đi trình diện với chính quyền mới theo lệnh ban hành đối với cựu quân nhân của chế độ củ, được ban Quản huấn thành phố cấp cho giấy chứng nhận tạm , tôi chưa dám đi đâu vì tình hình chưa ổn thì lại có thông báo cho tất cả các cựu sỉ quan và viên chức chánh quyền củ chuẩn bị khăn gói 10 ngày trình diện đi học tập cải tạo để am tường chính sách của nhà nước. Tôi củng như những người cùng chung số phận chuẩn bị khăn gói trình diện đi “học tập cải tạo”. ..và đi luôn không hẹn ngày trở lại!

Mải đến mấy năm sau, khi tôi được cộng sản phóng thích cho về gia đình , phải chịu sự quản chế của chính quyền địa phương và không được phép cư trú tại thành phố, thị xả , lúc nầy gia đình của tôi đả rời Sàigòn đi về quê, thay gì đi kinh tế mới theo kế hoạch của nhà nước . Tôi về nhà được 3 hôm, nghe ba mẹ tôi thuật lại, Hoa có trở lại Sàigòn tìm tôi một ngày sau khi tôi đả đi trình diện học tập cải tạo ..và nàng đả khóc nức nở, vì đả đến trể, không gặp được tôi. Nhớ đến Hoa, tôi vội vả viết gởi về người Bạc liêu lá thơ với một hy vọng mong manh nào đó …, tôi nhờ qua địa chỉ của đứa em chớ không dám ghi tên họ của mình vì bản thân tôi đang bị “quản chế” (tù tại chổ )sợ đám công an địa phương theo dỏi . Gần 2 tháng sau, tôi được lá thư hồi âm gởi từ Bạc liêu,

Anh Minh,
Nhận được thư của anh em sửng sờ, tưởng như mình đang
nằm mơ. Em mừng anh được trở về sum hợp với gia đình chấm dứt những ngày anh lang thang khốn đốn…,nhưng nước mắt em tuôn trào. ..em khóc, khóc vì ..anh trở lại với em ..quá muộn màng !
Em đả mỏi mòn đợi chờ tin anh, em đả mấy lần trở lại thành phố để tìm gặp gia đình anh, nhưng gia đình anh đả dời chổ ở đi nơi khác …Em đả khóc rất nhiều lúc xa anh và đả sống trong niềm hy vọng mong manh ngày gặp lại anh trong buối giao thời, ở cái khung cảnh và sinh hoạt củ..,nhưng vắng bóng người xưa!
Minh ơi!…
Chinh chiến đả mang anh từ một nơi xa xôi đến Bạc liêu với em..,.mang đến cho em những ngày thật hạnh phúc của thời con gái mộng mị yêu đương và e ấp chuyện lứa đôi, được có anh bên em, rồi ngày thanh bình của đất nước (?)đả mang anh đi.. vỉnh viển xa em…,em đả mất tất cả, chỉ còn lại trong em cái bóng hình của anh, một người lính trận hôm nào khoác áo phong sương, chiến y nhuốm màu đồng chua nước đỏ. Anh đả ra đi, đả bỏ lại cho em một khung trời kỷ niệm ..cùng những ước mơ héo hắt theo từng ngày trông ngống tin anh ..!
Anh Minh ơi, vì hoàn cảnh , em đả lập gia đình và đả có một con (bé gái, cháu vừa tròn 3 tháng), em gởi tặng anh hình con gái đầu lòng của em .
Minh ơi,
Nếu kiếp nầy mình có duyên mà không có nợ ..,thôi đành hẹn nhau kiếp khác nghe anh .Bạc liêu dầu trong cơn nắng bụi hay mưa bùn trơn trợt …lúc nào và mải mải có người con gái thiết tha yêu chàng lính chiến. Anh đả rủ áo phong sương đượm thắm bụi đường của Bạc liêu những ngày nắng chứa chan, anh đả cởi bỏ đôi giầy trận lấm bùn sình của quê em vào những ngày mưa dầm lầy lội …,xin anh hảy giử lại một chút ân tình nầy của em nghen anh …
Mải mải em yêu anh
Hoa
Hởi người Bạc Liêu ơi ..! hởi cuộc đời dâu bể …
Ôi ..! tháng Tư dang dở.!

Hết