2008/11/26

BDQ

Biệt Ðộng Quân Tây Chinh
Monday, November 24, 2008


Phạm Phong Dinh

(Ðể tưởng niệm: cố Trung Tá Mũ Nâu Ngô Minh Hồng)


Chiến dịch Tây Chinh đánh sang các cứ hậu cần và bộ chỉ huy Cộng Sản trên lãnh thổ Cộng Hòa Kampuchea khởi diễn trong cuối tháng 4.1970 đầu tháng 5.1970, binh chủng Biệt Ðộng Quân vinh dự được chọn làm nỗ lực chính trong cả ba mặt trận Vùng II, Vùng III và Vùng IV. Liên Ðoàn 4 Biệt Ðộng Quân của Vùng IV Chiến Thuật, cùng với Thủy Quân Lục Chiến và Bộ Binh làm thành mũi dùi thọc sâu vào đất Miên, tiến quân dọc theo con sông


Biệt Ðộng Quân vượt biên, tháng 5.1970.

Mékong đánh vào Kompong Cham, Kompong Trabek và Bến Phà Neakluong.

Trong thời gian này, dân và lính Miên, kể cả quân Khmer (Miên Cộng) dậy lên cuộc tàn sát ghê rợn hàng chục ngàn đồng bào Việt sinh sống từ lâu đời trên đất Kampuchea. Lũ Việt Cộng khốn kiếp, chúng có mặt ngay từ đầu cuộc thảm thương đó, mà chúng đã làm ngơ không can thiệp cứu giúp những người cùng đất nước và tổ tiên với chúng. Tiếng kêu khóc của đồng bào Việt Nam thảm thiết dậy khắp đất trời trong nhiều ngày liền, mà bọn súc sinh đó cứ mải mê lo tiến chiếm các vị trí của quân Cộng Hòa Miên, không đoái hoài gì đến nỗi đau của đồng bào. Một quân đội từng tự xưng là Quân Ðội Nhân Dân, cao rao công lý và giải phóng cho nhân dân, vậy mà khi nhân dân bị người ta sát hại ngay trước mắt, lũ âm binh ác quỷ đó đã trơ mặt không có phản ứng gì.

Khi những người lính Việt Nam Cộng Hòa tràn sang đánh đuổi quân Việt Cộng và bọn chỉ huy đầu sỏ trong Cục R chạy bán mạng, các anh rải quân lùng sục khắp thôn làng để tìm cứu đồng bào của mình. Khi các chiến sĩ tiền sát của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh tiến vào thành phố Prasaut, các anh đã sửng sốt thấy mình đang đứng giữa một thành phố ma hoang vắng lạnh người. Quân và dân Miên sau khi gây tội ác lên chính những người hàng xóm tối lửa tắt đèn hiền lành của mình, nghe tin quân Nam đến đã dắt díu nhau chạy trốn mất dạng, cả con con gà con chó cũng vắng bóng. Hàng trăm cái xác chết oan khuất của người Việt nằm đầy thành phố đã làm cho những người lính chúng ta phải bật khóc.

Ở mặt trận thuộc trách nhiệm Vùng III Chiến Thuật, các Liên Ðoàn 3, 5 và 6 Biệt Ðộng Quân cùng với các Tiểu Ðoàn Nhảy Dù và Bộ Binh đánh tràn vào Trung Ương Cục Miền Nam, tức Cục R và hang ổ các Sư Ðoàn 5, 7, 9 Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt. Sau những trận đánh thần tốc, gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị này, quân ta chuyển hướng tấn công vào Krek, Snoul và đồn điền cao su Chup.


Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân với mặt trận Krek

Krek là một thị trấn nhỏ của Kampuchea, nằm trên ngã ba Quốc Lộ 7 và 22, cách biên giới Miên-Việt khoảng 15 cây số. Từ ngã ba theo Quốc Lộ 7 về hướng Tây là đường đi Suông-Chup, hướng Ðông Bắc lên Snoul qua vùng Mỏ Vẹt. Nếu theo Quốc Lộ 22 sẽ đi về biên giới Tây Ninh. Vì vậy, Krek nằm trên một vị trí chiến lược rất quan trọng. Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng nhận nhiệm vụ đánh chiếm vị trí này.


Trung Tá Ngô Minh Hồng thuyết trình hành quân

Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân với các Tiểu Ðoàn 30, 33, 38 Biệt Ðộng Quân cấu thành Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân, có Kỵ Binh và Pháo Binh tăng cường hỏa lực. Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân từng hủy diệt nhiều đơn vị Việt Cộng trong hai lần chiến cuộc Mậu Thân, mà đã để lại trong lòng đồng bào thủ đô rất nhiều kỷ niệm đẹp. Các anh vừa đánh giặc vừa di tản đồng bào về phía sau được an toàn. Cam chịu nhiều tổn thất hy sinh, người lính Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân trong những ngày binh lửa ngập trời đó đã tiến rất chậm để bảo toàn tài sản và sinh mạng của đồng bào ruột thịt của mình. Giờ đây, các anh sẽ tham dự vào một chiến trường hoàn toàn mới lạ và đầy thách thức.

Ðược đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Trung Tướng Ðỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Ðoàn III, Mũ Nâu, Mũ Ðỏ, Mũ Ðen và Bộ Binh đã tấn công địch bằng nhị thức bộ binh-thiết giáp một cách tích cực và dữ dội hơn là trong nội địa Việt Nam. Chính là trên chiến trường ngoại biên, Binh chủng Biệt Ðộng Quân đã lập được nhiều kỳ công. Chúng ta cũng được biết rằng, khi chiến vượt biên Toàn Thắng 43 khởi diễn trong tháng 5.1970, ngoài các Sư Ðoàn Bộ Binh 5, 25 và Nhảy Dù, thì các Liên Ðoàn 3 và 5 Mũ Nâu được chọn làm nỗ lực chánh cho các chiến đoàn Kỵ Binh-Thiết Giáp tấn công cường kích vào khu Mỏ Vẹt trên đất Chùa Tháp.

Bừng bừng hùng khí, đại quân Quân Ðoàn III QLVNCH với ba Chiến Ðoàn 225, 318 và 333, đã đánh tràn vào những khu hậu cần của Trung Ương Cục Miền Nam, đồng thời bủa lưới truy bắt cơ quan Trung Ương Cục Miền Nam của Việt cộng đang ẩn trốn trong khu Mỏ Vẹt. Cuộc truy đuổi gay gắt và hiệu quả đến nỗi, các cánh quân của quân ta đã suýt nữa tóm cổ được cha con Cục Miền Nam. Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp của cái gọi là “Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam” làm việc trong Trung Ương Cục đã mô tả những khoảnh khắc khủng khiếp ấy trong cuốn hồi ký “Hồi Ức Của Một Việt Cộng”, rằng từ dưới hầm sâu nhìn quan những lỗ thông hơi, ông ta trông thấy các chiến sĩ Toàn Thắng đang di hành chỉ cách đó vài chục thước.

Trước khi Toàn Thắng 43 khởi diễn, hàng loạt B52 giội bom rung chuyển núi rừng như trong cơn tận thế. Tảng kể rằng, một phái đoàn quân sự Liên Xô sang thăm Trung Ương Cục bị vướng vào trận đánh bom, tuy không nằm trong vùng oanh tạc nhưng tiếng bom rền chỉ cách hầm trú ẩn của chúng không quá một cây số, khiến tên nào tên nấy mặt xanh xám như tàu lá chuối. Lần đầu tiên, người Liên Xô mới biết thế nào là sức mạnh của hỏa lực Mỹ. Thoát nạn B.52 chưa hoàn hoàn hồn được mấy, thì Trung Tướng Ðỗ Cao Trí đã xua quân đánh thốc vào các khu vực đồn điền cao su Chup, Mimot, Damber, quyết dồn bắt cho kỳ được lũ chuột ngày Trung Ương Cục.

Tảng đã kể lại rằng, trong tình thế tan nát và tuyệt vọng ấy, mỗi gã trong Cục đứa nào đứa ấy tìm cách lủi. Phạm Hùng, chính ủy, Nguyễn Văn Linh tự Mười Cúc đặc trách tuyên huấn, Võ Văn Kiệt, cùng nhiều yếu nhân Cục đều vắt giò lên ót chạy quên thở lên đến tận khu vực Kratié cách khu Lưỡi Câu về hướng Ðông Bắc chừng sáu mươi cây số mới dám ngừng lại. Bản thân Trương Như Tảng cùng một cận vệ cũng vác giò cẳng phóng theo như gió, đến đỗi khi hai thầy trò ngồi nghỉ dưới một gốc cây khá xa trận địa, đã thở hổn hển như những con cá mắc cạn, không dám tin rằng chúng vừa thoát khỏi lưỡi hái thần chết trong gang tấc. Ðây chính là một trang sử chói lọi của Quân Ðoàn III trong pho Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trong đó binh chủng Biệt Ðộng Quân đóng góp những dòng chữ vàng của mình.

Nếu Sư Ðoàn Dù phối hợp hành quân với Sư Ðoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ trên hướng Ðông Bắc, thì chính Biệt Ðộng Quân và Bộ Binh là cái cột xương sống của đại quân Tây Chinh Quân Ðoàn III Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dưới quyền chỉ huy của dũng tướng Ðỗ Cao Trí đánh vào Mỏ Vẹt. Khi Trung Tướng Ðỗ Cao Trí tử nạn trực thăng (?)ngày 23.2.1970 trên không phận Tây Ninh ở Trảng Lớn, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh lên thay thế, ông vẫn tín nhiệm và sử dụng lực lượng Biệt Ðộng Quân làm nỗ lực chánh trên khắp chiến trường ngoại biên. Các liên đoàn Biệt Ðộng Quân Quân Khu III thay nhau hành quân liên miên không ngừng nghỉ trên đất Chùa Tháp, cố giữ không cho quân Cộng Sản áp sát vào khu vực biên giới Miên-Việt, từ đó chúng quấy nhiễu và uy hiếp những tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long thuộc Quân Khu III. Trong một hoài niệm về người anh cả Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân, Trung Tá Ngô Minh Hồng, chúng tôi tìm thấy được một ít tài liệu nói về sự đóng góp của ông trong những cuộc hành quân ngoại biên.

Trung Tá Ngô Minh Hồng còn cống hiến nhiều hơn nữa trong thời kỳ gọi là Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972 khi Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của ông đã rất sớm được gởi ra tăng viện mặt trận Quảng Trị trong một tình thế tuyệt vọng nhất. Sự có mặt của các Liên Ðoàn 1, 4 và 5 Biệt Ðộng Quân trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 giữ chặt chiến tuyến phía Tây Quảng Trị trong suốt tháng 4.1972 lửa binh dậy trời, đã mua thời gian cho quân ta gởi thêm viện binh Tổng Trừ Bị quyết mở những cuộc tử chiến với giặc. Chính là ở chiến trường này, Trung Tá Ngô Minh Hồng đã bị thương khá nặng ở chân. Vết tích chiến tranh ấy vẫn theo cùng ông đến hết cuộc đời, với những bước đi khập khiễng. Chúng tôi xin nhân bài viết này, thành kính tưởng nhớ đến binh nghiệp lừng lẫy của người hào kiệt Mũ Nâu Ngô Minh Hồng. Tên của ông đã có một chỗ đứng trang trọng trong những dòng sử tri ân những người con đất Việt hiến dâng cuộc đời và xương máu cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn III điều động Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của Trung Tá Ngô Minh Hồng hành quân tảo thanh Cộng quân chung quanh khu vực Krek. Bộ Chỉ Huy của Trung Tá Hồng đóng ngay tại ngã ba Krek cùng Ðại Ðội 5 Trinh Sát Biệt Ðộng Quân, Công Binh, Vận Tải, một thành phần của Tiểu Ðoàn 251 Pháo Binh và Chi Ðoàn 1/18 Kỵ Binh tăng phái. Trung Tá Hồng phối trí Tiểu Ðoàn 38 Biệt Ðộng Quân giữ mặt Bắc căn cứ. Xa hơn nữa về hướng Ðông cách Krek 6 cây số là Căn Cứ Alpha của Tiểu Ðoàn 30 Biệt Ðộng Quân nằm trên Quốc Lộ 7 cùng với một tiểu đoàn quân Kampuchea. Tiểu Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân trở về tăng phái cho Tiểu Khu Biên Hòa.

Suốt nhiều tháng liền án ngữ ngã ba Krek, Cộng quân đã tránh né giao tranh với quân Mũ Nâu. Dù vậy, lúc nào Trung Tá Chiến Ðoàn Trưởng luôn nhắc nhở các đơn vị thường xuyên tu bổ hầm hố, hệ thống phòng thủ, chăm sóc vũ khí, kiểm kê đạn dược, nhưng trên hết luôn đề cao cảnh giác. Chiến trường càng im tiếng súng thì càng là chiến trường của những cơn bão ngầm chết chóc.

Thật như sự tiên đoán của Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân, sự cẩn thận của Trung Tá Hồng đã không thừa. Khoảng 3 giờ 15 ngày 26.9.1971, quả đạn pháo đầu tiên của địch đã rơi xuống căn cứ Alpha, mở màn cho trận đánh khốc liệt tiếp theo sau. Vẫn chiến thuật tiền pháo hậu xung, đợt pháo dập vừa dứt, bộ binh Cộng ôm đủ loại súng và bộc phá từ bốn hướng nhào vào vòng rào phòng thủ của Tiểu Ðoàn 30 Biệt Ðộng Quân. Quân ta đã ghìm súng sẵn sàng dưới chiến hào, mắt nhìn vào đỉnh đầu ruồi tìm mục tiêu. Khi những chiếc áo màu xanh rêu của giặc tràn ngập ngoài vòng rào, là lúc quân ta nổ súng phản công.

Ðể cầm chân quân tiếp viện, pháo binh địch đã dội lửa ùng oàng xuống Căn Cứ Krek và Tiểu Ðoàn 38 Biệt Ðộng Quân. Nhưng Pháo Binh 251 của Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tăng phái đã rót những trái đạn 105 và 155 ly yểm trợ rất chính xác cho Căn Cứ Alpha. Càng vững tâm hơn, khi chiến sĩ Tiểu Ðoàn 30 Biệt Ðộng Quân trông thấy hàng đoàn khu trục cơ của Không Quân Việt Nam lên vùng. Tất cả những ngần ấy đã buộc quân địch phải hối hả rút chạy, sự hối hả đó thể hiện qua 80 xác chết nằm ngổn ngang ngoài căn cứ. Tuy vậy, cấp chỉ huy địch vẫn cho quân bao vây quấy rối, pháo kích ngày đêm, đặc công xâm nhập để làm tiêu hao sức mạnh của quân ta và chờ đợi quân chi viện (tức tăng cường hay tăng viện).

Ngày 28.9.1971, Căn Cứ Alpha được tăng cường một Ðại Ðội của Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng Quân từ Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, cùng với Chi Ðoàn 3/15 Thiết Kỵ. Nhưng phía địch cũng đã nhận được quân tăng viện và đã tiến chiếm Ðồi 46 nằm giữa căn cứ Alpha và căn cứ Krek, cắt đứt mọi liên lạc bằng đường bộ. Chúng cũng thiết trí trên cao điểm này nhiều súng phòng không để ngăn chận đường tiếp tế không vận cho Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân. Cộng quân ngày càng đào giao thông hào lấn dần vào vòng rào phòng thủ thực hiện chiến thuật “bám thắt lưng địch mà đánh”.

Ðịch bám thì quân ta cũng có cách gỡ. Khu trục cơ bay đến thả bom sát ngay căn cứ, vượt qua những nguyên tắc an toàn tối thiểu. Không làm mạnh thì vẹm chúng không chịu buông. Ðiều chỉnh tọa độ trong khoảng cách tối thiểu hay dưới tối thiểu từ lâu đã là một đặc tính của quân ta để chống lại cái bám nhùng nhằng của địch. Quân địch bắt loa kêu gọi quân ta buông súng đầu hàng. Quân Mũ Nâu đã trả lời bằng hàng loạt quả bom từ phi cơ dội xuống. Ðã vậy mà lương thực và đạn dược càng lúc càng cạn dần. Ăn uống thật kham khổ, nhưng quân ta quyết giữ vững vị trí. Tiểu Ðoàn 38 Biệt Ðộng Quân giữ cứng ngắt mặt Bắc Krek, quân cộng không cách gì đánh thủng nổi.

Ngày 30.9.1971, tin vui đã đến: Tiểu Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân xuất trận. Tiểu Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân từ Biên Hòa được trực thăng vận nhảy xuống Krek đã chạm rất mạnh với quân Cộng. Một niềm vui lớn nữa khi trong ngày 3.10.1971, một kiện hàng thả dù đã rơi được vào căn cứ Alpha trong đó có 580 phần lương khô, đã mang lại sự phấn khởi cho căn cứ, tinh thần chiến sĩ lên cao, mà chiến đoàn ở Krek cũng thở phào nhẹ nhõm. Ngày 5.10.1971, thêm 5 kiện hàng khác đã rơi vào giữa căn cứ Alpha. Việt Cộng chắc không được vui lắm, nếu chúng nghe được lời chém đinh chặt sắt của người Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 30 Mũ Nâu:

- Bây giờ chúng ta chấp Việt cộng đánh thêm một tháng nữa!

Tình hình ngày càng khả quan hơn, khi nhiều phi tuần B.52 và F.4 Phantom đánh đúng vào những vị trí tập trung của quân Cộng quanh căn cứ và trong rừng cao su Krek. Có nhiều dấu hiệu cho thấy quân Cộng đang kiệt quệ, Trung Tá Hồng quyết định phóng ra cuộc hành quân tấn chiếm Ðồi 46 vào ngày 9.10.1971. Lực lượng Mũ Nâu và Mũ Ðen đã thanh toán sạch sẽ những chốt Cộng trên cao điểm, rồi từ đó đánh thông đường đến Căn Cứ Alpha, hai Ðại Ðội của Tiểu Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân vào tăng viện cho Tiểu Ðoàn 30 Biệt Ðộng Quân. Với sự hiện diện của chiến sĩ Tiểu Ðoàn 33, Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng 30 có thể dời ngày tử thủ căn cứ của ông thêm vài tháng nữa.

Áp lực Cộng quân chung quanh căn cứ Alpha giảm dần, những đơn vị tham chiến của chúng tại mặt trận Krek đã bị thiệt hại nặng và tan rã. Sau 20 ngày giao tranh, cấp chỉ huy Cộng quân buộc phải chấp nhận phần chiến bại. Chúng không còn khả năng để làm bất cứ điều gì nữa, ngoài mỗi việc kéo nhau rút mất hết vào phía những cánh rừng cao su bạt ngàn.

Quan sát vũ khí của VC bị Biệt Ðộng Quân thịch thu.


Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân và Toàn Thắng 42

Ngày 29.4.1970, Chiến Ðoàn 333 mà thành phần chủ lực là Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân do Trung Tá Phạm Văn Phúc làm Chiến Ðoàn Trưởng, với hai Tiểu Ðoàn 36 và 52 Biệt Ðộng Quân cùng một thành phần của Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh với 14 chiến xa M 41 rầm rộ vượt biên giới đánh sang Miên trong cuộc hành quân Toàn Thắng 42. Chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ tiếp theo, Chiến Ðoàn 333 đã đụng độ mạnh với địch.

Sức mạnh của Chiến Ðoàn chưa được khai thác đúng mức, khi sự phối hợp giữa Mũ Nâu và Mũ Ðen còn lỏng lẻo. Trận đánh kéo dài đến tám tiếng đồng hồ, quân ta buộc quân giặc phải bỏ chạy. Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng Quân tiến nhanh và sâu về phía trước. Tiểu Ðoàn 51 Biệt Ðộng Quân và Tiểu Ðoàn 3 Mike Forces (viết tắt từ Mobile Strike Forces) bị tổn thất nặng được chuyển về Việt Nam dưỡng quân. Tiểu Ðoàn 36 và 52 Biệt Ðộng Quân tiếp tục tấn công mạnh xuống khu vực thành phố Prasaut theo trục Quốc Lộ 1.

Ngày 1.6.1970, Chiến Ðoàn 333 tấn công ngược lên hướng Bắc, theo trục Quốc Lộ 7 tiến đánh đồn điền cao su Chup, cùng phối hợp mở hai mũi tấn công với Chiến Ðoàn 318 của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi. Ðồn điền cao su Chup rất lớn, diện tích đến 180 cây số vuông, rất thuận lợi cho Cộng quân ẩn núp rình chờ cơ hội phục kích quân ta. Nhưng bị kẹp giữa hai gọng kìm của Chiến Ðoàn 318 và 333, Sư đoàn 9 Cộng quân buộc phải bỏ chạy ra khỏi Chup. Những trận đánh lớn ở Chup đã làm cho quân số của cả hai bên đều bị tiêu hao. Chiến Ðoàn 318 được lệnh quay về Long Khánh ngày 3.6.1970 nghỉ ngơi một tuần, chờ bổ sung quân số và tái trang bị. Ngày 12.6.1970, Chiến Ðoàn 318 trở lại khu vực Chup thay thế cho Chiến Ðoàn 333 rút về Việt Nam. Ðơn vị Biệt Ðộng Quân duy nhất còn ở lại đất Miên thêm 70 tuần lễ nữa chính là Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân.

Phạm Phong Dinh



2008/11/05

Tuong Trang

2008/08/04

Nhắn Tin

NHẮN TIN SVSQ Đỗ Duy Nghĩa Khóa 4 (1963) sĩ quan hiện dịch Đồng Đế Nha Trang, muốn biết tin các bạn đồng Khóa, đặc biệt SVSQ PHẠM QUANG NGỌC, SĐ23 (đang ở Hoa Kỳ), và NGUYỄN VĂN KHÁNH (?) Liên đoàn 77/BTTM, cả hai cùng Đại Đội 4/TĐ4 SVSQ.
Xin liên lạc về:
doduynghia@yahoo.dk


Chung toi mot nhom ban cung khoa tai Quan Truong Dong De,Tu Bo tu Lenh Khong Quan gui qua gom 52 Khoa sinh vao khoang thang 10-1967 muon tim cac ban hoc cung khoa - dac biet Cac Ban o Binh Chung Khong Quan gui qua hoc de ve lam Huan Luyen Vien cho cac quan truong moi cua Binh Chung Khong Quan - dung dau la anh HUYNH VAN NO lam dai doi truong .
Dia Chi Lien Lac :
Tran Sy Lan / Bui Minh Dinh
P.O Box 550656
Houston Texas 77255
Email : sylaninc@hoitmail.com
Tel: 713-478-3566

2008/07/27

Thai Duong Nguyen Van Xanh


"Thái Dương" NGUYỄN VĂN XANH
Một người như mọi người!
* William S. Reeder
(Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa)
Lời nói đầu: Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người "anh hùng" được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất bình thường của mình. Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).
Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn g=E 1n trong phần tổn thất của quân bạn: "Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích". Chấm hết!
Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ. NHT
* * *
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nh ì của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt t5n công mà người Mỹ quen gọi là "Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972" (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.
[1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụ ng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]
Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây - giống như Việt Minh đã thực hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.
Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.
Hôm đó là ngày=2 09 tháng 5, 1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch công hãm ở Polei Klang, ở cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh bay chung v ới tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người hùng thiên cổ!
Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua hàng rào phòng20thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.
Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang, tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã20vô cùng phẫn nộ vì đã không được phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.
Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất. Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ ba trong ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Ko ntum, chúng tôi được lệnh hộ tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.
Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật20chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất, và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim - dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi phi cơ.
Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng, phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngC3y trước khi bị bắt.
* * *
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền; và bị đối xử khá tàn bạo. Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy. Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần. Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá.
Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại trả lại đôi giày bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy, giống như hai20cái hamburger còn sống.
Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào, giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông - là những thân tre vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó, không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì c ng chết từ từ vì bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắc ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng, người ta mới có thể đi trên cái "cầu" này để vào trại.
Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ - gồm tôi và một phi công trực thăng bị bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng bB gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm, tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ sinh ở một góc trại.
"Nhà vệ sinh" này thực ra chỉ là vài c i hố xí để bạn phóng uế xuống. "Vấn đề" là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên những cái võng gần các hố xí. Khi có "nhu cầu", người nào còn đủ sức thì ráng xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là "nhà vệ sinh" ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi, không c bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có "vấn đề". Nước phân phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có "vấn đề". Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng tôi được "chiêu đãi" bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự như rễ cây "yucca" ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn 20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời gian 5 tháng, tôi không hB được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn, đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết. Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.
* * *
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11 ngày, vì thế chúng tôi phải cố g=E 1ng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên trại trưởng nói rằng chúng tôi "phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi", tôi đã chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.
Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày, chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố chúng truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất cứ tình huống nào, sự thể cũng trái n gược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái, là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.
* * *
Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực. Mà là một cuộc hành trình gian khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên. Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài, từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, lA 1i còn bị tới 3 loại sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy, máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ tôi với tất sức lực còn lại nơi anh. Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon lFm. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng. Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan, hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình càng ngày tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy vọng. Kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực. Tôi loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại20ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong linh hồn. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực. Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậ y, rồi kê cái lưng ốm yếu cho tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt, và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.
* * *
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bư ớc đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa dừng chân là cây "cầu" bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng v0o người và lôi cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!
Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi, đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi theo tôi làm cB 4ng việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới "khách sạn Hilton - Hà Nội" lừng danh (tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.
* * *
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi chung với tôi trong toán tù binh nhứ nhất, cùng với một người khác trong toán thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên quan tới gia đình anh.
Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet, nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH, trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho "trang chủ" mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong m t ngày gần nhất, có thể là mùa thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại để chờ chết.
Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất cứ khó khăn, tr ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh - vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết; và giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý mến ấy.