2008/05/22

XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
Nguyên tác Anh ngữ:
Tiến sỹ Lewis Sorley
Người dịch: Trần Đỗ Cung
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
Trong một cuộc chiến dai dẳng và khó khăn không một ai có thể nhìn rõ khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hôm nay tôi trình bày vấn đề này dưới nhiều khía cạnh trong tám mục chính và hai phụ khoản.Chính Phủ Việt Nam cấp các huy chương tham chiến cho quân nhân Mỹ. Đặc biệt thấy gắn trên băng biểu chương một thẻ kim khí khắc “1960…”
Người ta đã không ghi niên điểm cuối cùng bởi lý do dễ hiểu; tuy nhiên ta có thể xem 1960 là khởi điểm vì đó là mốc đánh dấu sự gia tăng tham chiến của Mỹ cho đến ngày quân đội Mỹ lên cực điểm. Trong giai đoạn này chúng ta có môt cái nhìn tổng thể về thành tích của quân đội Việt Nam từ 1960 cho đến 1975.Vài năm trước đây tôi đã viết một bài nhan đề “Dũng cảm và xương máu” để phân tích thành quả quân đội Việt Nam trong vụ tấn công tháng Tư 1972. Bài đã được đăng trong báo Parameters của trường Đại Học Quân Sự. Hồi còn sinh thời ông Douglas Pike đã bình luận trong một ấn bản Indochina Chronology như sau:
“Đã có cố gắng chậm chạp nhưng liên tục điều chỉnh và cứu vãn danh dự của ngưới quân nhân Việt Nam từng bị nhục mạ bởi bọn phóng viên truyền hình thương mại ngu dốt và cánh trí thức thiên tả. Bài của ông Sorley đã xét lại lịch sử và ông ta lập luận vững vàng trong lãnh vực này”.Tôi vẫn tri ân lời khuyến khích ấy và ước gì Giáo Sư Pike còn hiện diện để thấy các tài liệu lịch sử hiện hữu chứng minh sự dũng cảm đưa đến trưởng thành và thành tựu của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Chỉ vì nước chúng ta không thực thi cam kết cho Nam Việt trong khi phe cộng sản vẫn tiếp tục và đều đặn gia tăng yểm trợ Bắc Việt nên đồng minh bất hạnh của chúng ta mới bị tràn ngập và thua trận.Cho đến nay chưa bao giờ có một cố gắng định mức toàn diện sự tiến triển và thành tích của quân đội Việt Nam trong những năm bành trướng. Trong thời giờ hạn hẹp ở đây tôi chỉ mong điều chỉnh phần nào sự khiếm khuyết, bất công và nhiều lúc sai lạc mỗi khi bàn đến QLVNCH tuy đó là một thái độ khôn ngoan cho đến nay.Chúng ta rất thiếu hiểu biết về cuộc chiến Việt Nam mặc dầu nó đã kết thúc ba mươi năm qua. Là vì những người phản chiến hoặc ít nhất chống sự tham dự của chính mình đã mô tả mọi khía cạnh qua một lăng kính xấu và nhiều khi đã nói sai sự thật. Ông James Webb vạch mặt giới truyền thông, trí thức và Hollywood là những nhóm đã “có lợi khi làm cho cuộc chiến bị xem là không cần thiết hay không thắng được”. Và vì họ điều khiển dư luận nên họ đưa ra những lập luận sai lầm ngay cả khi chiến tranh kết thúc đã ba mươi năm. Những lập luận thật sai lạc, đi từ thóa mạ người lính Việt trong một quá trình chiến đấu cam khổ cho đến Jane Fonda hạ nhục những tù binh Mỹ là bọn láo khoét hoặc đạo đức giả khi nói rằng họ đã bị tra tấn hay hành hạ trong lúc bị giam cầm. Đã đến lúc ta phải bỏ thái độ tiêu cực, lắm khi mạt sát và cố tình dùng chính trị để đổ lỗi cho quân đội Việt Nam trong hầu hết các tranh luận.
PHẦN 1 - QUÂN ĐỘI VIỆT NAM LÚC ĐẦU
Đây là giai đoạn mà chúng ta chủ động trong khi Việt Nam bị đẩy ra ngoài lề với nhiệm vụ bình định (mà đây chính cũng là một khía cạnh của chiến tranh và bộ chỉ huy Mỹ đã quên lãng). Bởi vậy họ không được cấp những vũ khí mới cũng như được trợ chiến cần thiết.Phần đông chúng ta và ngay cả một số người Mỹ phục vụ tại chỗ đều chỉ trích quân đội Việt Nam trong thời kỳ ấy. Họ đã không lưu ý đến một số yếu tố ảnh hưởng nặng nề lên tình trạng đó. Quân cụ Mỹ cung cấp đều là những thứ lỗi thời từ Thế Chiến II, nhất là các súng trường M-1 vừa nặng vừa cồng kềnh với tầm vóc người Việt. Trong khi đó thì kẻ thù đã được Nga-Tầu trang bị đầy đủ súng AK-47.Thiếu Tướng James L. Collins đã trình bầy về tình hình quân đội Việt Nam như sau, “Năm 1964 địch quân đã bắt đầu xử dụng AK-47, một loại súng tân tiến, tự động và rất bén nhậy. Trái lại lực lượng bạn vẫn dùng loại khí cụ phế thải của Thế Chiến II…” Rồi từ năm 1965 khi quân Mỹ lần hồi gia tăng nhập cuộc thì nhu cầu chiến tranh về phía bạn lại càng bị đẩy lui vào hậu trường”.Do đó các đơn vị Việt luôn luôn bị địch quân áp đảo trong thế đánh không cân xứng. Đại Tướng Fred Weyand khi thuyết trình mãn nhiệm chỉ huy Đệ Nhị Lộ Quân đã nói rõ, “Sự chậm trễ cung cấp khí giới và quân cụ mới cho Việt Nam, ít nhất ngang với sự yểm trợ của Nga Tầu cho quân địch làm cho quân bạn yếu kém”.Chỉ từ khi Đại Tướng Creighton Abrams nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Lực Mỹ vào hồi tháng Năm 1967 người ta mới bắt đầu chú ý đến quân Nam Việt. Tướng Abrams điện ngay cho Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Harold K. Johnson như sau. “Tôi thấy ngay là quân lực Mỹ tại đây cũng như bên chính quốc chỉ nghĩ trước tiên đến hành quân Mỹ và yểm trợ các đơn vị Mỹ.
Do đó chương trình cung cấp chiến cụ cho Việt Nam đã ít ỏi mà lại còn không được thi hành một cách tích cực và cấp tốc như đối với quân Mỹ.
Rõ ràng chúng ta có trách nhiệm lớn với quân bạn. Công việc phải làm ngay và tôi đang bắt tay cấp kỳ vào việc”!Ngay khi nhậm chức, Tướng Abrams liền gia tăng lực lượng Việt Nam, nhất là cung cấp các súng M-16. Trong trận tấn công Tết Mậu Thân 1968 ông đã đưa được M-16 vào tay Nhẩy Dù và các đơn vị tiền tiến khác. Tuy nhiên phần đông vẫn bị lép vế đối với công sản. Trung Tướng Chỉ Huy Tiếp Vận Đồng Văn Khuyên nhắc lại rằng, “Trong Vụ Tềt Mậu Thân người ta nghe rõ tiếng sắc bén liên hồi của AK-47 trong Sài Gòn cũng như các thị trấn khác, như là một diễu cợt khôi hài cho các phát súng lẻ tẻ Garant và Carbine trong tay hoảng hốt của quân ta”!Tuy vậy quân Việt vẫn đẩy lui địch quân một cách bất ngờ và dũng cảm. Báo Time đã viết:
“Nhiều người Mỹ đã ngạc nhiên và Công Sản đã đau đớn sửng sốt thấy quân đội Việt Nam đã tức tốc đương đầu và chiến đấu ngang tàng can đảm khác hẳn dự đoán”. Nhưng không thấy ai đề cập đến sự chênh lệch khí giới của đôi bên.Tháng Hai 1968 Tướng hồi hưu Bruce C. Clarke đi thăm Việt Nam và viết một tờ nhận định được Đại Tướng Early Wheeler chuyển đến tay Tổng Thống Johnson. Tướng Clarke nói “các đơn vị Việt còn bị chi phối bởi một chương trình quân viện nghèo nàn, kể cả khí giới cá nhân. Điều này ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thành quả của binh sĩ. Quân sỹ cảm nhận rõ khi họ không được trang bị đầy đủ”!Tổng Thống Johnson liền mời Tướng Clarke đến văn phòng đàm luận thêm. Và sau đó ít ngày “viên phụ tá Tổng Thống điện thoại báo cho tôi là Tổng Thống Johnson đã ra lệnh gửi ngay 100,000 súng M-16 cho quân VNCH”. Tổng Thống đã nhấn mạnh trong bài diễn văn lịch sử ngày 31 tháng Ba 1968, “Chúng ta sẽ nhanh chóng tăng viện cho quân đội Việt Nam để đáp ứng sự gia tăng hỏa lực của địch quân”. Thật là kịp thời.Tướng Clarke trở lại Việt Nam vào tháng Tám 1969 để thấy “lực lượng VNCH đã có 713,000 khẩu M-16 cùng với các khí giới khác và họ đã tiến bộ nhiều kể từ Tết Mậu Thân”. Hiện nay họ và các lực lượng diện địa đều đã có súng cá nhân tối tân luôn cả phóng lựu M-79, súng máy M-60 và các đài vô tuyến AN/PRC-25 như quân đội Hoa Kỳ.Các sư đoàn Mỹ được trang bị tối tân và nhiều hơn phía Việt Nam nên khả năng tác chiến cũng gấp bội. Tùy viên của Tướng Abrams đã nhấn mạnh là Đại Tướng đã nghiên cứu so sánh khả năng tác chiến giữa sư đoàn Mỹ và Việt Nam để thấy chênh lệch hỏa lực 16 lần. Tướng Abrams dùng dữ kiện này để tìm cách tăng viện cho các sư đoàn VNCH. Phía VN còn bị kém hơn nữa vì lúc đầu các yểm trợ chiến trường đều ưu tiên cho quân Mỹ, như oanh tạc B-52, xử dụng trực thăng, chiến đấu cơ cận chiến và chuyển quân giữa chiến địa.

Tướng Abrams nói thêm là trong lần tấn công thứ ba vào tháng Tám và Chín 1968 quân VN đã hạ được nhiều địch quân hơn cả tổng số của Đồng Minh. Họ cũng chịu nhiều tổn thất nhân mạng hơn theo số kiểm chứng cũng như theo ước tính với phân số ta và địch tử vong. Ông nói với Tướng Wheeler rằng đó là vì thật sự quân đội VN không được yểm trợ như quân đội Mỹ cả về phẩm lẫn lượng (trọng pháo, không tập chiến thuật, không pháo và trực thăng vận). Bởi vậy việc chỉ trích quân đội VN trong thời kỳ đầu thiếu khách quan. Thiếu khí giới cần thiết trước một địch quân hùng hậu hơn lại còn bị đẩy xuống vai trò thứ yếu trong nhiều năm đã không cho họ cơ hội tăng tiến kinh nghiệm chiến đấu.Về sau ông Robert McNamara từng là Bộ Trưởng Quốc Phòng và chủ động chiến tranh đã viết một cách hời hợt về phía Việt Nam. Ông đã bị William Colby sửa lưng như sau, “Ông không có quyền nói xấu những người Việt đã đem xương máu chống cộng sản trong khi đại cường Mỹ đã phủi tay chỉ vì lỗi lầm của McNamara. Mục đích hết sức cao đẹp nhưng Hoa Kỳ đã thua với McNamara và phần lớn là vì hắn”!PHẦN 2 - TẾT 1968Chiến trận xẩy ra khắp nơi hồi Tết 1968 là một thử thách lớn cho Quân Đội VNCH. Nhiều người đã sửng sốt chứng kiến một thành tích vượt bực. Khi đi nhận giải Thayer tại trường Westpoint Đại Sứ Ellsworth Bunker lên diễn đàn ca ngợi chiến tích ấy. “Mặc dầu Quân Đội VN ít hơn nhưng họ đã chiến đấu vượt bực. Đại Tướng Abrams đã nói họ chiến đấu ngoài sức tưởng tượng của họ. Đã không có nổi dậy, không có đào ngũ và chính quyền vẫn nguyên vẹn. Trái lại họ phản ứng cấp kỳ, mạnh mẽ và đích đáng; họ chiến đấu với tối đa sức mạnh”.Thành tích vượt bực của quân đội VNCH trong trận Tết Mậu Thân 1968 rất cần thiết cho tương lai Việt Nam. Đại Sứ Bunker nói tiếp :”Kết quả là cả một chuỗi diễn tiến làm cho chính phủ Việt Nam vững mạnh, dân chúng tin tưởng hơn khả năng đương đầu với địch và chính quyền thấy sẵn sàng gánh vác vai trò chiến đấu hơn”.Ông John Paul Vann cũng đồng ý nói trong năm 1972 rằng “Tết Mậu Thân đã làm cho chính phủ Nam Việt gia tăng kiểm soát lãnh thổ, tổng động viên nhân lực để có đủ quân số trám vào khi quân Mỹ rút lui và gia tăng lực lượng địa phương bảo dảm sự hiện diện chính quyền trung ương tại các vùng thôn quê”.Lúc Đại Tướng Abrams nhận chức chỉ huy lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì xẩy ra vụ tấn công thứ ba của cộng sản vào mùa Thu 1968. Ông điện cho Đại Tướng Earle Wheeler và Đô Đốc John McCain, “Tôi phải kết luận rằng việc quân Việt Nam đã giết nhiều địch trong vòng sáu tuần lễ hơn cả quân Đồng Minh chứng tỏ tiến bộ lãnh đạo và tinh thần xung kích của họ. Họ phải trả một giá rất cao về tử vong và tôi cho phần lớn là vì không được yểm trợ đúng mức. Do đó cần phải nhanh chóng tăng viện khí giới cho họ”.Trong cuộc họp thượng đỉnh ở Midway vào tháng Sáu 1969 chương trình nghị sự chú tâm đến bành trướng và tăng quân viện cho quân lực Việt Nam. Quân số tăng lên 820,000 rồi lại đưa lên đến 1.1 triệu người đã được ký kết. Ngoài ra, theo ghi nhận của Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, còn thỏa thuận trang bị thêm M-16, đại liên M-60 và hỏa tiễn LAW. Vậy thấy rằng ngay lúc ấy mà còn bàn đến M-16 thì quân Việt đã phải chiến đấu từ lâu ở thế kém với một địch quân hùng hậu.PHỤ ĐÍNH - VÀI SO SÁNH*Đã có 50 người đào ngũ mỗi ngày dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư Lệnh. Đó là trường hợp Đại Tướng George Washington ở Valley Forge trong mùa Đông 1777-1778.*Đã phải đưa đại pháo ra đường dẹp phiến loạn chống động viên. Đó là lúc Tổng Thống Abraham Lincoln đã phải quyết định ở Nữu Ước hồi tháng Tư năm 1865 trong cuôc nội chiến Nam Bắc.*Trong trận chiến cuối cùng đã chỉ có nửa quân số tham dự vì tệ nạn đào ngũ. Đó là trường hợp Đại Quân Potomac của Tướng George Meade ở Gettysburg. “Ông ta hy vọng có 160,000 binh sĩ nhưng chỉ vỏn vẹn được 85,000 vì 75,000 lính đã đào ngũ. Trong cuộc Nội Chiến Mỹ, tỷ lệ đào binh của Liên Quân là 33% trong khi bên kia còn hơn nữa ở mức 40 phần trăm”.*Trong cuộc tổng xung kích một nửa số binh sĩ trong các sư đoàn đã kháng lệnh. Đó là trường hợp Quân Đội Pháp năm 1917 làm cho tòa án binh đã phải kết tử hình 554 quân nhân trong số ấy 49 người đã bị hành quyết.*Đặc biệt có trường hợp một số đơn vị đã tháo chạy; đó là trong Thế Chiến II khi Đại Đội K thuộc Sư Doàn 25 Mỹ đã bỏ chạy toán loạn. Sử gia Geoffrey Perret ghi, “Hiếm thấy một Sư Đoàn Mỹ nào không có tình trạng Đại Đội bỏ ngũ như vậy”.*Nói đến một đơn vị mà Tư Lệnh Sư Đoàn bị cách chức, bốn phụ tá chính bị loại, hai Tiểu Đoàn Trưởng bị bắt sống và chín Tiểu Đoàn Trưởng khác bị thay thế. Đó là Sư Đoàn Mỹ 36 tại Salermo trong Thế Chiến II.*Luôn luôn pháo kích, ám sát, bắt cóc và áp đảo thường dân vô tội là việc làm của công sản trong suốt cuộc chiến.*Giết hại thường dân vô tội như trong trường hợp Thủy Bồ và Mỹ Lai là thành tích xấu xa của quân Mỹ trong những năm 1967-1968.Ta có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự. Điểm nên nhớ là nếu đem so sánh với các lực lượng đương thời hoặc theo lịch sử ghi nhận thì QLVNCH đã chiến đấu ngang tàng và xứng đáng trong suốt cuộc chiến. Đó là một điểm son không bao giờ được nhắc tới.Có rất nhiều tài liệu ghi sự dũng cảm và thiện chiến của QLVNCH, tuy nhiên các nhà viết sử không chú ý đến và các phóng viên báo chí thì lờ đi. Trong Văn Khố Quôc Gia có hàng ngàn huy chưong Hoa Kỳ cấp cho quân sỹ Việt Nam vì thành tích phục vụ quả cảm.Quá trình đẹp đẽ ấy lại càng đáng nể hơn nếu ta nghĩ rằng người lính Việt đã tham chiến từng nhiều thập niên và phần đông đã hy sinh cả quãng đời thanh niên của họ. Một người Mỹ đã nói rất chí tình, “Quân nhân Việt không có DEROS (ngày được trở về) như lính Mỹ chỉ phục vụ một năm ở Việt Nam. Họ chiến đấu không ngừng nghỉ năm này qua năm khác với một sức chịu đựng và lòng nhiệt thành không tưởng tượng được. Ngay sau khi cộng sản thắng trận phần đông lại còn chịu giam cầm hàng chục năm trong các trại lao cải nghiệt ngã”.PHẦN BA - ĐỊA PHƯƠNG QUÂNSau vụ Tết Mậu Thân 1968, Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành xử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, bình định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy trình cấp bách ngang với chiến trận.Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “bình định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân thì quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và bình định lãnh thổ.Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh cho sự phát triển và nâng cao các lực lượng địa phương là việc làm quan trọng nhất của Mỹ. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng nhận định rằng kết quả bình định xã ấp, gia tăng số dân sống dưới chính quyền và an toàn giao thông là công của lực lượng địa phưong quân và nghĩa quân.Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam thì quân lực VN gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra còn có những lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân và Nghĩa Quân phụ trách an ninh lãnh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân còn Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phương của họ và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đã có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.Một trùng hợp, đêm hôm trước Bing West và một nhân vật nữa đã lên kênh PBS “Giờ tin tức với Jim Lehrer” để thảo luận về tình hình Iraq. Một người đã nói đến quan niệm “càn quét và giữ vững” của Condoleza Rice. Nếu ta tìm nguồn gốc quan niệm này thì hẳn phải kể Lực Lượng Diện Địa Nam Việt, Đại Tướng Abrams, Đại Tướng Harold K. Johnson và bản nghiên cứu PROVN (chương trình bình định và phát triển Nam Viêt) của Đại Tá Jasper Wilson.Ngay từ tháng Mười 1968, ông William Colby làm phụ tá Bính Định cho Tướng Abrams đã giải thích tầm quan trọng của các lực lượng ấy. “Để bảo vệ an ninh lãnh thổ chúng ta chú trọng đến tăng tiến Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, lên ngót một nửa toàn thể quân số. Chúng ta đã bắt đầu ngay từ tháng Mười vừa qua. Trong một buổi thuyết trình Đại Tướng Abrams đã nhấn mạnh ba mươi điều phải làm trong đó có việc cử các toán nhỏ cố vấn quân sự đến các Đại Đội Địa Phương Quân và các Trung Đội Nghĩa Quân. Ta đã có 250 toán năm người rải rác khắp mọi nơi”.Ba tháng sau ông Colby đã thấy sự tăng tiến nhanh chóng huấn luyện và vũ khí cho các đơn vị ĐPQ cũng như NQ. “Đã có 91,000 binh sỹ nhiều hơn năm ngoái. Khoảng 100,000 người đã được trang bị súng M-16 và 350 toán cố vấn đã sống và làm việc với các đơn vị ĐPQ và NQ”. Ngay khi lãnh chức Tư Lệnh, Đại Tướng Abrams đã thẳng thừng chuyển các súng mới cho họ. Ông nói trong bài thuyết trình tháng Tám 1968, “Trong một năm ĐPQ và NQ được ưu tiên hàng đầu và nhận súng M-16 trước cả Lục Quân. Cũng như mọi việc, tôi đã bỏ vào quỹ-tiết-kiệm-lính với lãi xuất 10 phân. Trời Đất ơi, chúng ta đã đầu tư vào đây và đó là việc phải làm, ưu tiên tối đa trên tất cả mọi thứ”!ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết trình WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai trò của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lãng. Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đã lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đã giáng cho quân địch nhiều đòn chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân thì đây mới là phần việc lớn”!Cùng một lúc, ông nói rõ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không. Nếu có thêm nhân số thì tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa này có lợi hơn”.Cuối năm 1969, khi nhìn biểu đồ tình hình trong ba tháng vừa qua ghi rõ ai đã đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đã nói: “Thật rõ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, thì QĐVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đã xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”.Một người trong cừ tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!.Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đã bắt đầu thấy kết quả”!Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bảy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của mình. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn tình trạng năm năm trước đây.Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phương, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một tình trạng đã được duy trì lâu nay là ĐPQ và NQ đã gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.Các sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nhìn nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “Các ĐPQ và NQ đã lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”! ĐPQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng đã được các nhân vật bình luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng, “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”!PHẦN 4 - NHỮNG VẤN ĐỀ NHỨC NHỐICó ba vấn đề luôn luôn khó khăn cho QLVNCH trong suốt chiến tranh là, thiếu cán bộ lãnh đạo giỏi, tình trạng tham nhũng lan rộng và đào ngũ.Có lãnh đạo với đầy đủ khả năng chỉ huy là một vấn nạn cho QLVNCH trong suốt cuôc chiến. Với sự gia tăng quân số đến 1.1 triệu người tình trạng lại càng trầm trọng hơn. Sự thất thoát cấp chỉ huy của các đon vị nhỏ lại càng làm cho vấn đề tệ hại khi quân số gia tăng.Công việc huấn luyện và các kế sách tuyển mộ các chỉ huy mới rồi đôn họ lên theo chiến tích thật là nhọc nhằn và khó khăn. Sau chiến dịch Lam Son 719, Đại Tướng Abrams tham dự một cuộc duyệt binh tại Huế đã nói, “Thật là một việc đáng ghi. Họ đôn quân, HSQ được thăng lên, HSQ lên thành Chuẩn Úy, Chuẩn Úy lên Thiếu Úy. Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng đó là việc nhỏ với 5,000 thăng cấp, mà thăng cấp mặt trận”.Tướng Abrams rất thích: “Đó là chuyện đã xẩy ra ở Lào. Không có cách gì tốt hơn trong quân đội là đi vào hàng ngũ lựa chọn những phần tử chiến tích thích đáng mà đôn lên”. (Cũng như vậy đối với các viên chức tại Trung Tâm Huấn Luyện Vũng Tàu hầu giúp họ tăng tiến khả năng quản trị và lãnh đạo trong công việc).Vài vị chỉ huy Việt Nam đã không ngớt chỉ trích khả năng lãnh đạo của mình. Đại Tướng Cao Văn Viên đã viết trong cuốn sách của ông như sau, “Trong thời gian tôi phục vụ ở cương vị Tổng Tham Mưu Trưởng tôi đã chứng kiến sự thành công cũng như thất bại của khả năng lãnh đạo của chúng ta. Mặc dầu chúng ta đã cố gắng tối đa nhưng vẫn không đủ trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước”.Sự đào ngũ trong các sư đoàn là một căn bệnh trầm trọng của QLVNCH. Tuy nhiên không phải đào ngũ theo phe đich nhưng phần lớn là để tránh ra trận hay để về nhà. Đó là một việc khác hẳn phía địch khi phần đông những đào binh quay về hàng ngũ quân ta. Trái lại đào binh ta thường trở lại ngũ tại địa phương. Theo Anthony Joes đó là sự hoán chuyển từ quân đội chính quy về địa phưong quân mà tỷ lệ đào ngũ gần như không có mặc dầu số tử vong cao hơn quân chính quy.Tham nhũng là một nhược điểm nữa không bao giờ gột tẩy được mặc dầu ảnh hưởng lên chiến cuộc không mấy quan trọng như người ta thường kêu la. Tuy nhiên Đại Tướng Cao Văn Viên đã kết luận như sau. “tham nhũng không phải yếu tố đưa đến sự sụp đổ của chế độ nhưng chắc chắn nó gây ảnh hưởng tệ hại đến trình độ binh nghiệp và như vậy làm suy nhược khả năng chiến đấu”.Ông Tom Polgar của CIA nhận định xác đáng rằng tham nhũng không thể lật đổ một quốc gia cũng như trường hợp Phi Luật Tân, Nam Hàn hay Thái Lan. “Nước nào mà không trả công tương xứng cho viên chức đều có tham nhũng, đó là một quy luật. Tuy nhiên tham nhũng bòn rút hết tiêm lực quốc gia khi có ngoại xâm”.Đại Tá William LeGro đã ở lại đến những ngày cuối cùng với DAO (Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng) đồng ý. Ông nói: “Tham nhũng không làm cho sụp đổ. Sự giảm thiểu viện trợ Hoa Kỳ đến con số không là đáp số”. Ông ta nói thêm: “Chúng ta đã đối xử một cách xấu xa bỉ ổi với bạn Việt Nam của chúng ta”.PHỤ ĐÍNH - NGUYỄN VĂN THIỆU.Phần này bàn về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH.Tổng Thống Thiệu lãnh đạo quốc gia trong một thời kỳ ngặt nghèo nhất. Trong khi chiến đấu chống ngoại xâm và nội loạn được Nga Tầu yểm trợ tối đa, ông đã đặt các cơ cấu dân cử từ trung ương cho đến hạ tầng xã ấp. Ông đã gia tăng quân đội và với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông đã tăng tiến phẩm chất quân lực để thay thế quân Mỹ. Ông trực tiếp lãnh đạo chương trình bình định nông thôn và phá vỡ hệ thống khủng bố đe dọa dân quê. Ông thực thi một chính sách cải cách ruộng đất đáng khen, phân phát cho 400,000 nông dân 2 triệu rưỡi mẫu ruộng, và tổ chức bốn triệu dân thành một lực lượng dân vệ với 600,000 khẩu súng.Trong sáu năm phục vụ Đại Sứ Ellsworth Bunker thường xuyên tiếp xúc với Tổng Thống Thiệu và đã nhận xét xác đáng về con người cùng khả năng của ông ấy. Đại Sứ Bunker nói: “Ông ta đối phó với tình hình một cách khôn ngoan và khéo léo. Ông ta là một con người trí thức đầy khả năng. Thoạt đầu ông đã cai trị theo hiến pháp chớ không theo một lũ Tướng Tá chỉ muốn ông hành động theo ý họ. Càng ngày ông càng hành xử như một chính trị gia (đây là một lời khen của Bunker), đi về vùng quê, thanh tra bình định, chuyện trò với dân xem họ muốn gì”. Ông Bunker khen ngợi ông Thiệu và có khi coi ông ta như một đối thủ chính trị có bản lãnh. Bunker nói: ‘Tôi nghĩ Thiệu là một người khôn ngoan và chín chắn”.Ông Thiệu cũng hết sức thực tế khi phàn nàn với Bunker rằng, “Thật là khổ cho chúng tôi đã không có mấy vị Tướng đủ khả năng chỉ huy hơn một sư đoàn”! Khi nói vậy ông ám chỉ cả chính ông một cách khiêm nhượng và rất đúng.Vì quân đội cung cấp phần lớn khả năng hành chính cũng như chính trị nên ông Thiệu bị giới hạn một cách đau thương trong việc thay thế các phần tử thiếu khả năng hay bất xứng. Lại nữa ông ta cũng cần phải lưu giữ những người đáng tin cậy mặc dầu yếu kém. Trong thời đầu nhiệm kỳ ông đã cắt nghĩa cho một nhân viên Mỹ cao cấp như sau: “Hoàn toàn thanh lọc cấp chỉ huy trong quân đội là một việc bất khả thi. Mỗi sự thay thế một vị tư lệnh đều phải sắp đặt và thi hành hết sức cẩn trọng. Không thể kéo quân đội ra khỏi chính trị trong một sớm một chiều. Tổ chức quân đội vẫn là thế đứng duy nhất của tôi và hơn nữa là một cơ chế vững vàng nhất để bảo đảm thống nhất quốc gia”.Đại Sứ Bunker cũng như Đại Tướng Abrams hiểu rõ vấn đề nên tỏ ra rất kiên tâm và thông cảm. Nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị chính xác liên quan đến các cấp chỉ huy cao thiếu khả năng. Thường thì được nghe theo tuy phải mất thời giờ trong khi sắp xếp chính trị. Trong một thời gian đã có những thay đổi lớn trong cấp lãnh đạo quân cũng như chính, có khi do áp lực khủng hoảng chiến trường. Tuy nhiên chưa bao giờ có việc thanh trừng rộng rãi là vì không những để tránh xáo trộn mà lại còn không có đủ người xứng đáng thay thế. Đào tạo nhiều cấp chỉ huy tốn quá nhiều thì giờ.Giới cao cấp Hoa Kỳ nhận thấy sự quan trọng của Thiệu trong việc bình định. Tướng Abrams bảo rằng ông Thiệu hiểu nhiều hơn bất cứ ai về công tác bình định và William Colby gọi ông là “con người bình định số một”. Lịch sử Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Mỹ đã nhận định “Thiệu là một yếu tố quan trọng. Ông ta nhận định rõ ràng sự quan trọng của chương trình bình định và thiết lập các cơ cấu hành chính cấp địa phương”.Nhiều dịp Tổng Thống Thiệu mời Đại Sứ Bunker cùng đi kinh lý thôn xã. Ông Bunker đã nghe ông Thiệu nhấn mạnh sự thiết lập cơ chế hành chính địa phương, tổ chức bầu cử xã ấp, huấn luyện các viên chức địa phương và cải cách ruộng đất. Tại Trung Tâm huấn luyện Vũng Tầu 1,400 xã trưởng nghĩa là ba phần tư làng xã Nam Việt đã theo học trong chín tháng đầu năm 1969. Tổng Thống Thiệu đi thăm mọi lớp và cho các học viên khi trở về làng có thể hãnh diện nói với dân là “Tổng Thống đã khuyên nhủ tôi thế này thế nọ”. Cuối năm 1969 tình hình đã tiến bộ rõ rệt khiến cho ông John Paul Vann, một nhân vật hàng đầu trong chương trình bình định đã nói trước cử tọa tại Princeton rằng, “Hoa Kỳ đã thắng trên trận địa và nay đang thắng chính trị với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”.Hồi tháng Tư 1968, trái với ý kiến của hầu hết các cố vấn, Tổng Thống Thiệu đã thiết lập các lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông Thiệu lập luận rằng, “chính quyền căn bản trên dân. Bởi vậy chính quyền không có nền móng nếu không dám đưa khí giới cho dân”. Do đó khoảng bốn triệu người, trong số những người quá trẻ hoặc quá già để nhập ngũ, đều xung vào Dân Vệ và được trang bị 600,000 súng cá nhân. Lập luận xác đáng là chính phủ Thiệu được dân ủng hộ, Dân Vệ đã dùng súng chống lại sự đô hộ cộng sản chớ không phải chống chính phủ.Về sau qua bao nhiêu tài liệu người ta thấy rõ rằng cộng sản đã nhiều lần kêu gọi tổng nổi dậy nhưng không bao giờ dân đã nổi dậy theo chúng. Theo con mắt khách quan của nhiều quan sát viên thì không lạ gì mà sau bao nhiêu năm ám sát, bắt cóc, khủng bố, ức chế và pháo kích bừa bãi các khu dân cư trong toàn Nam Việt mà cộng sản đã không chinh phục được lòng dân.Tháng Mười năm 1971 trong tình hình chiến tranh dữ dội Tổng Thống Thiệu đã thắng cử không có đối thủ. Nhiều người đã chỉ trích ông cho rằng sự thắng cử của ông không xứng đáng vì không có đối lập.. Tuy nhiên mặc dầu địch đe dọa và kêu gọi tẩy chay đầu phiếu đã có 87.7 phần trăm cử tri hợp lệ đến phòng phiếu và 91.5 phần trăm đà bỏ phiếu cho ông Thiệu. Đó là một tỷ lệ cao nhất của Việt Nam. Nếu không hay ho vì không có đối thủ hay dân không bằng lòng sự lãnh đạo của ông thì tại sao họ lại đi bỏ phiếu đông như vậy mặc dầu có thể nguy hiểm đến tính mạng? Người ta thấy rằng, mặc dầu có nhiều chỉ trích, phần đông dân chúng muốn ông tiếp tục lãnh đạo xứ sở.Ông John Paul Vann tuyên bố hồi tháng Giêng 1972 rằng “yếu tố căn bản không chối cãi được là khoảng 95 phần trăm dân chúng muốn có chính phủ Việt Nam hiện hữu hơn là chính phủ cộng sản hay một chính phủ do phía bên kia đưa ra”.Thật là buồn khi nhiều người Việt đã chỉ trích ông Thiệu. Tôi đã nói chuyện với nhiều bạn Việt hiện sinh sống ở đây. Mới đây một người bạn học thức và thông minh đã nói với tôi một cách phũ phàng rằng Tổng Thống Thiệu đã nói dối. Tôi hỏi lại như thế nào thì được trả lời ngay: “Thiệu biết rõ là người Mỹ sẽ bỏ rơi mà không nói cho chúng tôi biết”.Tôi cho đó là một lời buộc tội quá nặng và cần bàn lại. Đại Sứ Bunker nhớ đã tự tay đưa cho Tổng Thống Thiệu ba bức thư cam kết của Tổng Thống Nixon giúp Việt Nam nếu cộng sản vi phạm trắng trợn hiệp định. Nhưng ông Bunker nói, “Quốc Hội bó tay chúng ta và kết quả là nước Mỹ đã bội phản”. Ông Bunker giải thích rõ ràng, “tôi không thể hình dung được làm sao Tổng Thống Thiệu có thể biết trước cung cách và hành động điếm nhục ấy của Hoa Kỳ”!Ông Thiệu đã từ chức vài ngày trước khi Sài Gòn thất thủ hầu mong có dàn xếp ổn thỏa. Trong bài giã từ ông đã làm đúng khi giận dữ chua chắt về một cuộc tranh đấu cam go trong nhiều năm. Nó đã cho thấy rằng ông cũng đã sửng sốt như bất cứ ai khi người đồng minh một thời đã quay lưng lại một người bạn trong lúc hoạn nạn (và phản bội cả những người Mỹ đã hy sinh tại Việt Nam).Theo tôi thì Nguyễn Văn Thiệu đã thi hành nhiệm vụ một cách can dảm trong nhiều năm chiến tranh để xứng đáng được kính nể và biết ơn của những ai vẫn muốn thấy miền Nam Việt Nam tốt đẹp (còn có nể trọng hay không là tùy trường hợp).PHẦN 5 - LAM SƠN 719Rõ ràng người ta đã cho rằng chiến dịch Lam Son 719 vào Hạ Lào là một thảm bại cho Nam Việt. Tuy nhiên sự thật khác hẳn, vì hiện nay với băng ghi Abrams và các nguồn tin khác đã cho biết là quân Bắc Việt thiệt hại nặng khiến cho chúng mất trớn tổng tấn công miền Nam để ta có thì giờ kiện toàn Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh.Trong tài liệu WIEU (cập nhật hằng tuần tình báo) ngày 30 tháng Giêng ta thấy địch quân biết đôi chút về hành quân vượt biên giới của ta. Tám ngày trước khi cuộc hành quân khởi diễn, COMINT (tình báo vô tuyến) nhận thấy địch quan tâm đến các hoạt động phía ta tại vùng 1 và những khu vực lân cận Hạ Lào. Đã phát hiện các truyền tin của địch từ ngày 24 tháng Giêng để ý đến “quân ta có thể đánh qua biên giới phá trục tiếp vận của chúng”. Cũng có tin tức là địch hết sức lo cuộc đổ bộ vào Bắc Việt và sư xâm nhập Lào từ những chiến hạm ngoài khơi, vv.Ngày 8 tháng Hai các đơn vị QLVNCH vượt biên vào Lào trên trục lộ 9 với thiết giáp, nhẩy dù, biệt động, thủy quân lục chiến và lục quân. Tổng số 10,000 quân đã nhập đất Lào vào cuối tuần. Cùng lúc, 10,600 quân tiến vào Cao Mên.Khi Đô Đốc McCain Tư Lệnh Thái Bình Dương (CINPAC) dự thuyết trình ngày 19 tháng Hai thì được biết các đụng độ khá cao ở cấp Đại Đội và nhiều trận lẻ tẻ đã diễn ra trên khắp chiến trường. MACV theo rõi sáu tiểu đoàn địch đương đầu QĐVN tại Lào. Quân Đội Mỹ không được phép tham dự nhưng sư yểm trợ của không lực Mỹ đã mất 21 trực thăng trong 7,000 phi xuất (tổng số thất thoát trong chiến dịch là 108 nghĩa là 21 cho 100,000 phi xuất).Trung Tướng William E. Potts của MCV J-2 đã tóm lược cho Đô Đốc McCain như sau: “Điểm đáng ghi nhận là trong chiến dịch Lam Son, địch quân đã đưa ra tất cả những gì chúng hiện có hoặc đang gửi đến ngoại trừ Sư Đoàn 325 và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 304. Vậy nếu chúng bị thiệt hại thì chúng sẽ tụt hậu trong một thời gian khá lâu”. Tướng Abrams nói thêm, “Lẽ cố nhiên chúng ta mong đón tất cả bọn chúng với toàn thể sức mạnh của chúng ta”. .Dầu vậy, đến ngày 20 tháng Hai, nghĩa là gần hai tuần sau chỉ có sáu Trung Đoàn địch hiện diện trong chiến dịch Lam Sơn. Thuyết trình viên nói trong buổi họp chỉ huy WIEU (dự đoán tình báo hàng tuần) ngày hôm ấy là, “thật vậy sự phản công mạnh mẽ của địch đã xẩy ra đêm 18 tháng Hai. Phía ta có một lực lượng tương đương với 18 tiểu đoàn vẩn tiếp tục tìm địch thanh toán”.Đại Tướng Abrams nhấn mạnh với ban Tham Mưu và các cấp chỉ huy của ông là phải cho quân Việt Nam mọi phương tiện cần thiết để họ chiến thắng trong trận hệ trọng này. “Đây là một dịp dể giáng cho địch một vố ta chưa bao giờ làm được”. Ông nhấn mạnh hết sức ý nghĩa khi Hoa Thịnh Đốn đưa ra một vài chỉ trích: “Ai cũng biết cái rủi ro từ lúc đầu nhưng ta thấy là đã đến lúc phải chấp nhận rủi ro”. Khi qua Hoa Thịnh Đốn Đại Sứ Bunker đã trình bầy tất cả các khía cạnh tương quan.Cho đến ngày 24 tháng Hai, MACV vẫn theo dõi sáu Trung đoàn địch (tăng lên thành bẩy ba ngày sau) trong chiến dịch Hạ Lào. Trong tường trình cho Tướng Abrams, thuyết trình viên đã nói rằng bốn tiểu đoàn trong số 18 cung cấp cho Trung Đoàn địch hình như đã bị tê liệt. Cũng trong ngày ấy số tử thương của địch quân được ước lượng là 2,191 người trong khi quân bạn mất 276 mạng.Đến đây thì một khó khăn lớn xẩy ra là thiếu hụt trực thăng. Mà Quốc Lộ 9, con đường chính Đông Tây có nhiều đoạn bị đào sâu lên đến cả sáu thước khiến cho việc xử dụng con lộ này hầu như bị gián đoạn. Nhất là loại bồn chở xăng không thể đi qua được. Bởi vậy phải tiếp tế bằng phi cơ, ảnh hưởng nặng nề lên đội ngũ trực thăng. Sự tính toán điều hành và sửa chữa cấp bách đã xoay lại tình thế. Cho nên khi Tướng Julian Ewell, một nhân vật không mấy thiện cảm với chiến dịch, đi thanh tra ông đã nói, “tỷ lệ sẵn sàng hành quân (operational readiness) ngày Chủ Nhật khi tôi đến thăm là 79%, một con số vượt bực”.Cùng lúc địch tung ra một trận tấn công lớn với thiếp giáp và tràn ngập cứ điểm 31 là nơi trú quân của Tiểu Đoàn Bộ Đệ Nhất Sư Đoàn VNCH. Người ta đã ghi nhận địch có 350 quân bị giết và 15 thiết giáp bị phá hủy đối lại 13 quân bạn chết, 39 bị thương và ba thiết vận xa bị hư hại.Người ta nhận thấy ngày mồng 1 tháng Ba một Trung Đoàn địch nữa đã tham chiến nâng tổng số lên tám đơn vị (trong 24 tiểu đoàn có sáu đã bị tê liệt). Đại Tướng Abrams nói, “thật là một trận khủng khiếp”. Trong buổi thuyết trình cập nhật ngày 4 tháng Ba thuyết trình viên đã nhắc lại rằng ngày 11 tháng Hai đã thấy dấu hiệu địch chuyển sang thế tấn công. Tuy nhiên sự việc chỉ xẩy ra ngày 18. Ta có thể nói là địch đã mất quân số vào khoảng bẩy tiểu đoàn chủ động, còn số thiết giáp của họ vào khoảng 100 chiếc lúc đầu thì nay chỉ còn từ 65 đến 70 chiếc mà thôi. Ở thời điểm này ta ước lượng địch quân có tại hiện trường 15,000 chiến binh cộng với từ 8,000 đến 10,000 quân hậu cần trong khi bên ta huy động mười sáu tiểu đoàn chủ động.Khi một tù binh thuộc Trung Đoàn 24-B khai rõ sự tộn thất nặng nề trên đường 92 về phía Bắc Bản Đông thì phòng J-2 MACV giảm hiệu lực của địch đi hai Tiểu Đoàn, nghĩa là trong số 30 Tiểu Đoàn địch thuộc 10 Trung Đoàn tung ra trên chiến trường đương đầu với quân VN thì chúng đã mất hẳn 10 Tiểu Đoàn. Tướng Abrams nói, “Tôi càng tin chắc rằng đây có thể là trận quyết định chiến cuộc”. Tướng Potts nói thêm, “Họ mất một nửa chiến xa, một nửa đại bác phòng không và 10 trên 30 Tiểo Đoàn”.Trong một buổi cập nhật tình báo hàng tuần (WIEU) ngày 20 tháng Ba, Đại Sứ Bunker nói Chiến Dịch Lam Sơn đang chấm dứt là một cuộc hành quân rất thích ứng. Tướng Abrams bèn trả lời: “Thật là một trận đánh cam go. Tuy nhiên ảnh hưởng lên phần cuối năm nay hết sức to lớn. Chúng đã tung nhiều lực vào Lam Son và đã bị thua đậm”Ngày 23 tháng Ba khi địch quân tung vào thêm Trung Đoàn thứ mười ba, thuyết trình viên trình bầy rằng chín trong số mười một Trung Đoàn đã bị thiệt hại nặng nghĩa là họ chỉ còn khoảng 17 Tiểu Đoàn chủ động trong số 33 đem ra. Ngoài ra họ lại còn mất khoảng 3,500 đơn vị hậu cần. Khi các yếu tố được trình bầy trong kỳ WIEU thì Tướng Potts nói thêm, “Không phải các Tiểu Đoàn ấy bị sút kém nhưng chúng đã bị hoàn toàn tiêu diệt”.Quân đội VNCH cũng chịu nhiều tổn thất, 1,416 bị giết và 714 mất tích. Nhiều khí cụ đã bị phá hủy hay bỏ lại khi vội vã rút lui. Khi xét lại kết quả, Đại Tướng Sutherland nhận định như sau: “Khuyết điểm từ lâu là Bộ Tham Mưu VN không có đủ khả năng thiết kế và phối hợp Không Lực cũng như phối hợp yểm trợ không địa. Tuy nhiên họ dã học hỏi nhiều trong chiến dịch này”.Quần chúng hết sức ủng hộ trận Lam Sơn. Khi Ông Thompson tới viếng thăm hồi cuối tháng Ba người ta đã trình bầy với ông kết quả cuộc thăm dò dư luận trong 36 tỉnh. Kết quả cho thấy 92% đồng ý với các chiến dịch như Lam Sơn 719, 3% chống đối và phần còn lại không có ý kiến. Kết quả cho thấy một phân xuất rất cao so với bất cứ lần thăm dò về bất cứ một vấn đề gì trước đây.QLVNCH đã chiến đấu trong 42 ngày liền tại Lào. MACV trình bầy khiêm tốn cho Bộ Trưởng Lục Quân Stanley Resor là Chiến Dịch Hạ Lào đã “thử thách QLVNCH trước một địch quân quyết tâm trong trận địa xuyên biên giới. Chắc chắn là đã phá được đường tiếp vận của họ”. Ở Hoa Kỳ người ta kêu đó là một thảm bại của quân Việt. Lẽ cố nhiên bộ máy tuyên truyền Hà Nội vội vã túm lấy cơ hội.Tuy nhiên Tướng Abrams nhận định là chiến dịch nhất định có lợi cho QLVNCH. “Từ trước ta cứ tưởng rằng Bắc Việt có thể chiến thắng họ. Chiến tranh chưa chấm dứt nhưng Bắc Việt bắt đầu thấy là họ phải đương đầu với một công việc khó hơn nhiều”.PHẦN 6 - MỘT CUỘC CHIẾN THẮNG LỢIPhương pháp áp dụng trong giai đoạn Abrams đã có kết quả tốt mặc dầu nhiều người không tin như vậy. Quân Mỹ đã lần hồi rút nên quân Việt đạt nhiều thành quả hơn. Vì chiếm được nhiều đất hơn nên đã thấy nhiều lính địch quy thuận hơn. Trong năm 1969 có 47,000 hàng binh cọng thêm 37,000 hồi chánh năm 1970. Mỗi Sư Đoàn Bắc Quân có 8,689 quân số. Như vậy thì số đào ngũ của họ trong hai năm bằng chín Sư Đoàn. Đã đến chiến thắng mặc dầu vẫn phải đánh nhau là vì Nam Việt đã đủ khả năng giữ vững chủ quyền và tự lực hành động với lời hứa yểm trợ của Hoa Kỳ như họ vẫn làm cho đồng minh tại Tây Đức và Nam Hàn.Ngay từ cuối năm 1969 John Paul Vann, một nhân vật chính của chương trình bình định đã viết cho cựu Đại Sứ Henri Cabot Lodge như sau: “Tôi không cần thăm Hoa Thịnh Đốn hay Ba Lê như trước để tìm cách thay đổi chính sách Việt Nam. Tôi hài lòng với chính sách hiện hữu. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã đạt mục tiêu bỏ được số Mỹ tử vong sau 1972 và chiến phí (cuộc chiến sẽ còn kéo dài mãi) sẽ giảm hẳn vì được người Việt lo liệu với sự trợ giúp tiếp vận và tài chính của chúng ta”.Ngoài trách nhiệm chiến đấu thay vào quân Mỹ rút đi, Nam Việt còn phải đương đầu với nhiều thay đổi chính sách. Đại Tướng Abrams nói rõ là họ phải vượt qua các trở ngại mỗi ngày một khó hơn. Ông nhắc lại, “Chúng ta đã bắt đầu từ năm 1968,. Mục tiêu của chúng ta là đến 1974 họ phải quất nặng bọn VC để sau nữa sẽ đập cả bọn Việt Cộng lẫn quân Bắc Cộng tại miền Nam. Rồi họ phải nén chặt chúng lại, nén ba bốn lần. Như vậy chúng ta bắt đầu; trong một thời gian dài – ông ra dấu bằng tay – và phải kết thúc trong thời gian ngắn hơn nhiều”.“Và nếu cần truy cản Việt Cộng, Bắc Cộng hay giúp Cao Mên chẳng hạn thì chúng ta cũng giúp tay vào. Tuy nhiên chúng ta cần hết sức cẩn thận không có sẽ bị trật đường rầy. Ta tránh làm như vậy vì nó sẽ làm cho ta điên lên”. Sự thay đổi đường lối quan trọng nhất là loại bỏ dự tính giữ lại một lực lượng Mỹ lâu dài tại chỗ như thể ở Tây Âu hay Nam Hàn.Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương trình bình định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi đã ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa Phương và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xã. Ta đã giúp làng xã lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc bình định”.Ngay từ giữa tháng Ba 1971 quân đội Việt Nam đã gánh vác chiến đấu. Thuyết trình viên đã nói với Đại Tướng Ewell rằng sự chú trọng của Tướng Abrams vào công tác bình định nay đã hầu như thành tựu 100% với các kế hoạch tương quan. Quân Mỹ đã gần như rời khỏi việc hành quân”.Những tin tức từ phía địch đã xác nhận thành quả. Trong một cuốn sách in bởi nhà Xuất Bản Thế Giới Hà Nôi, hai tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Võ đã viết, “cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi đậu đã bị quân đội Sài Gòn chiếm lại. Cuối 1968 chúng ta đã bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác bình định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị suy nhược và vị trí co thắt lại. Quân ta bị tiêu diệt, không còn đất bám và phải qua đồn trú tại Cao Mên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đã tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta ra khỏi cứ địa”.Tháng Giêng 1972 Vann nói rằng “chưa bao giờ chúng ta phải tham chiến ít như bây giờ. Ngày nay thấy rõ các vùng quê phồn thịnh, đường xá khai thông, cầu kỳ mở lại và bạn có nhiều rủi ro hơn với cả đống Honda và Lambretta ngược xuôi. Chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đã có kết quả ngoài tưởng tượng”. Đó là công đầu của Việt Nam Cộng Hòa.PHẦN 7 - TỔNG TẤN CÔNG PHỤC SINH 1972Thành quả Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh và việc bình định nông thôn khiến cho đối phương phải tìm một phương án khác. Đó là cuộc tấn công Phục Sinh. Douglass Pike viết: “Không còn là một cuôc chiến cách mạng nữa, và theo quan niệm của Võ Nguyên Giáp thì phải qua giai đoạn chiến tranh quy ước nhỏ giống như ở Triều Tiên”.Trong vài ngày về Mỹ John Paul Vann đã trình bầy hiện tình Việt Nam trước một cử tọa giáo sư chọn lọc. “Họ dựa vào các giới chức dân cử xã ấp khi kinh tế tăng trưởng, an ninh tiến bộ và chiến tranh đã chuyển sang Cao Mên và Lào. Sự thực là 95% dân chúng muốn lưu giữ chính quyền hiện tại hơn là một chính phủ cộng sản hay một cơ cấu do bên kia đưa ra”.Theo lịch sử ghi chép của Quân Đội Nhân Dân thì kế hoạch tấn công 1972 được chấp thuận bởi Ban Quân Ủy Trung Ương từ tháng Sáu 1971. Mục tiêu là chiến thắng vào năm 1972 làm cho quân Mỹ xâm lược phải thương thảo trong thế yếu. Ông Pike diễn giải, “đó là một cuộc tấn công toàn diện với nhân lực, khí giới và tiếp vận quy mô. Vào giữa mùa Hè tất cả 14 Sư Đoàn Bắc Quân rời khỏi Bắc Việt. Chúng xử dụng nhiều thiếp giáp và đại pháo nặng hơn QLVNCH và đạn dược cũng không giới hạn”.Cuối tháng Ba 1972 địch tiến hành một cuộc xâm lăng cổ điển với 20 Sư Doàn và một trận chiến tàn bạo sắt máu đã xẩy ra. Ông Douglas Pike viết, “Cuộc tấn công được sửa soạn công phu đã bị bẻ gẫy vì không yểm làm cho chúng không tập hợp được và vì sư chống trả dũng cảm và kiên trì của quân Nam Việt. Bắc Quân và hệ thống giao thông của chúng đã bị triệt hạ nặng. Nhưng chính yếu là QLVNCH và cả Địa Phương Quân đã hiên ngang chống trả như chưa từng thấy”.Bắc Quân tổn hại 100,000 người trong số 200,000 xung trận và có lẽ 40,000 đã bị giết. Họ đã mất già nửa thiết giáp và đại pháo. Sẽ cần ba năm để hồi phục trước khi tấn công lại và Tướng Võ Nguyên Giáp bay khỏi chức Tổng Tư Lệnh. Trái lại Nam Quân mất 8,000 tử vong, gần ba lần thương binh và vào khoảng 3,500 mất tích. Tướng Giáp đã tính sai và phải trả một giá đắt cho lỗi lầm ấy. Ông Pike kết luận: “Giáp đã ước sai lòng quyết tâm và sự chống trả mãnh liệt của Quân Nam Việt. Hắn sai lầm về sức đề kháng của QLVNCH”.Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đã giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đúng thẳng chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân cũng không chận đứng được bọn cộng sản”.Bọn chỉ trích cũng triệt hạ QLVNCH cho rằng họ sống sót được là nhờ Quân Mỹ. Không một ai nhớ rằng 300,000 Quân Mỹ phải đóng ở Tây Đức là vì người Đức không thể chống lại Nga Xô Viết hay nhóm Liên Minh Warsaw nếu không có Quân Mỹ. Họ cũng quên là 50,000 Quân Mỹ phải lưu lại Nam Hàn để giúp trong trường hợp bọn Bắc tấn công. Và không ai đã nghĩ rằng vì Quân Mỹ hiện diện nên phải chê bai và chế riễu Quân Đội Tây Đức cũng như Nam Hàn. Chỉ có Nam Việt bị tách rời ra để bôi nhọ một cách bất công và ác độc mặc dầu chỉ được không trợ chớ không được Quân Lực Mỹ hỗ trợ như Đức hay Cao Ly.Quân Nam Việt đã thực sự đánh bại cuộc tấn công Phục Sinh 1972 với xương máu và lòng quả cảm. Đại Tướng Abrams nói với Tổng Thống Thiệu rằng “nhờ khả năng bén nhậy của các cấp chỉ huy nên đã gặt hái thành quả và họ đã chứng tỏ đủ bản lĩnh đương đầu với cuộc thử thách. Những anh hùng bảo quốc Nam Việt đã giáng cho quân xâm lăng một đòn chí tử khiến cho chúng cần ba năm nữa mới có thể mở lại một cuộc tấn công quy mô”. Tuy nhiên trong khi ấy bao nhiêu thay đổi hệ trọng đã xẩy ra trên một bình diện rộng lớn hơn.QLVNCH đã trở thành một lá chắn thiện nghệ, nhanh nhẹn và quyết tâm cho xứ sở của họ. Tuy nhiên họ đã bị bôi nhọ bởi những luận điệu tiêu cực gồm cả vu khống của bọn phản đối Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến hay ít nhất chính sự tham gia của cá nhân họ hay bọn thân cộng. Trái lại đã có bao nhiêu thành tích rõ ràng trên trân địa hồi cuối Xuân và trong mùa Hè 1972.PHẦN 8 - BỎ RƠIPhần này bàn về tình hình sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng Giêng 1973. Để dụ Việt Nam thỏa thuận điều mà họ cho là quá sai lầm khi cho Bắc Việt được để lại miền Nam một lực lượng lớn, Tổng Thống Nixon đã hứa với Tổng Thống Thiệu rằng nếu Bắc Việt bội ước và lại tấn công Nam Việt thì Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ để trừng phạt chúng. Và Nixon nói thêm, nếu chiến tranh trở lại, nước Mỹ cam kết thay thế các chiến cụ trên căn bản một đổi một theo như điều khoàn của Hiệp định Paris (chiến xa, trọng pháo vv). Sau nữa Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ kinh tế tài chánh cho Việt Nam. Thật ra, Hoa Kỳ đã bội ước tất cả các khoản kể ra.Trong khi ấy thì Bắc Việt đã nhận viện trợ không tiền khoáng hậu của các quan thầy. Theo một cuốn sử xuất bản tại Hà Nội năm 1994 thì trong vòng chín tháng sau khi ký kết Hiệp Định Paris, từ tháng Giêng đến tháng Chín 1973, Bắc Việt đã gửi tiếp tế vào Nam bằng bốn lần năm vừa qua. Dầu vậy con số còn nhỏ nhoi so với lượng chúng đưa vào Nam từ đầu 1974 cho đến ngày chấm dứt cuộc chiến năm 1975. Trong vòng mười sáu tháng, theo tài liệu cộng sản, thì bằng 1.6 lần quân viện trong cả mười ba năm.Nếu chính phủ Nam Việt không ký Hiệp Định thì không những Hoa Kỳ sẽ đơn phương tính với bên kia mà Quốc Hội Mỹ cũng nhanh chóng cắt hết viện trợ. Mặt khác nếu Việt Nam chấp thuận Hiệp Định với hy vọng sẽ tiếp tục nhận viện trợ Mỹ thì họ bắt buộc phải chấp nhận tình trạng Bắc Quân sẽ trú đóng một cách nguy hiểm trên lãnh thổ. Nam Việt đã quyết định phương án thứ nhì, một tiên liệu quyết tử để thấy một cách đau đớn là phải chấp nhận cả hai việc tồi nhất, quân Bắc Việt trong lãnh thổ và viện trợ Mỹ chấm dứt.Nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird giải thích hệ quả như sau. “Trong hai năm sau Hiệp Định, Nam Việt đã can đảm chống lại một cách đáng nể một địch quân được yểm trợ tối đa. Hoà đàm Bắc Nam vẫn tiếp tục cho đến ngày mà Quốc Hội cắt hẳn viện trợ vào năm 1975. Và Nam Việt nhanh chóng bị tràn ngập. Chúng ta đã tiết kiệm được khoảng 257 triệu mỗi năm và làm cho Nam Việt xụp đổ sau khi đã chiến đấu dũng mãnh từ năm 1973 không có sư giúp đỡ của quân Mỹ.Nhiều người Mỹ không thích nghe rằng bọn độc tài Nga Xô và Trung Hoa đã tỏ ra đáng tin cậy hơn là nước Mỹ Dân Chủ. Nhưng đó là sự thật phũ phàng. Phóng viên William Tuohy đã nhiều năm phúc trình cuộc chiến cho Washington Post viết, “một chuyện không tin được và không tha thứ được là một đại cường quốc đã bỏ rơi đồng minh yếu kém vào tay bọn Bắc Cộng. Nhưng chúng ta đã làm như vậy”.Binh sỹ Nam Việt can đảm chiến đấu cho đến khi viện trợ bị cắt dần dần rồi ngưng hẳn. Trong vòng hai năm sau khi ký Hiệp Định Paris Nam Việt đã mất 59,000 quân tức là nhiều hơn số quân Mỹ tử trận trong mười năm. Nếu nghĩ rằng dân số Nam Việt chỉ bằng một phần mười Mỹ Quốc thì ta thấy rằng sư thiệt hại hết sức thảm khốc và cường độ trận chiến đã cao như thế nào.Bà Merle Pribbenow nhấn mạnh rắng sự ghi nhận của Bắc Việt cho thấy trong 55 ngày cuối cùng họ đã phải đương đầu với một chiến cuộc hết sức gay go. Đó là một chiến tích đáng ghi cho Nam Việt khi họ biết là kết cục sẽ chắc chắn như thế nào. Đại Tướng Bắc Quân Lê Trọng Tấn đã ghi, “Trong giai đoạn cuối cùng Quân Y của chúng ta đã phải di tản và chữa chạy cho quá nhiều thương binh, 15 lần nhiều hơn trong trận chiến biên giới, 1.5 lần hơn trận Diện Biên Phủ và 2.5 lần nhiều hơn trong trận Hạ Lào”. Bà Pribbenow chiết tính là “Quân Đội Nhân Dân đã chịu tối thiểu từ 40,000 đến 50,000 thương binh và có thể còn nhiều hơn nữa, nghĩa là còn cao hơn tổng số tổn thất lúc QLVNCH xụp đổ theo nhận xét của các sử gia”.Đại Tá William LeGro đã ở lại DAO đến phút chót đã có một cái nhìn chính xác về sự việc. Ông nói: “Sự giảm quân viện Mỹ cho đến gần số không là lý do đưa đến sự xụp đổ cuối cùng”. Ông nói thêm, “Chúng ta đã làm một việc hết sức quái gở với người bạn Việt Nam”.Gần đến ngày cuối, ông Tom Polgar đứng đầu CIA Sài Gòn gửi một điện văn ngắn ngủi: “Kết quả quá rõ ràng vì Nam Việt không thể sống sót nếu không có quân viện Mỹ trong khi khả năng chiến tranh của Bắc Việt vẫn giữ nguyên với sự trợ lực của Nga Xô Viết và Trung Cộng”.Sau chiến tranh tình hình trở nên quá đen tối như người ta sợ. Phóng viên Seith Adams của New York Times viết về hoàn cảnh Đông Nam Á một cách xác đáng và cảm động như sau. “Hơn một triệu người Nam Việt bỏ xứ. Khoảng 400,000 người bị đầy vào các trại cải tạo, một ít trong thời gian ngắn nhưng nhiều người đã bị giam giữ đến mười bẩy năm. Một triệu rưởi dân bị cưỡng bách đi các vùng ‘kinh tế mới là những nơi hoang dã trong hoàn cảnh đói kém và bệnh tật”.Cựu Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn mô tả sự vỡ mộng của y với kết quả chiến thắng của cộng sản đã áp đặt như thế nào lên xứ sở. Ông ta phàn nàn, “tất cả các lý luận về ‘giải phóng’ trong hai mươi, ba mươi hay bốn mươi năm qua đã gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát lãnh đạo bởi một lũ ác độc, một bọn lý thuyết gia ít học và chuyên chế”.Đại Tá Bắc Quân Bùi Tín cũng thẳng thắn nói về hậu quả cho cả những người chiến thắng: “Thật là quá chậm cho thế hệ tôi, một thế hệ của chiến tranh, của chiến thắng và bội phản. Chúng tôi đã thắng nhưng chúng tôi cũng đã thua”.Sư cố gắng của những người miền Nam trong một cuộc tranh đấu dai dẳng cuối cùng là một thảm trạng. Quân đội đã mất 275,000 người chết trong khi chiến đấu. 450,000 dân bi hy sinh, phần đông do khủng bố cộng sản hoặc bị chết trong những cuộc pháo kích bừa bãi vào các đô thị và thêm 935,000 người nữa bị thương.Trong số cả triệu người trở thành thuyền nhân một số có thể rất cao đã bỏ mạng trên biển cả. Có lẽ 65,000 người đã bị hành quyết bởi bọn tự xưng là giải phóng. Khoảng 250,000 hay hơn nữa đã chết trong các trại tù “cải tạo” man rợ. Hai triệu người bị đẩy ra khỏi quê cha đất tổ để trở thành một diaspora Việt Nam.Ta không thể hoàn toàn xác định giá trị của QLVNCH mà không nói đến các cựu chiến binh bị đầy khỏi xứ với các gia đình của họ hầu lập nghiệp lại trên đất Mỹ. Đó chính là một câu chuyện khác về sự can đảm, quyết tâm và thành quả. Đã biết quá rõ tính chất của bọn mạo danh là “giải phóng”, một băng đảng luôn luôn giết hại, gây thương tích, bắt cóc và ức chế hàng ngàn dân vô tội, nên họ bỏ chạy hàng loạt khi sự chống đỡ tan rã.May thay nhiều người đã thoát được đến bờ bến tự do làm lại đời mới. Mỹ Quốc may mắn đón nhận một triệu di dân Việt Nam là một tăng tiến cho văn hóa và một đóng góp đáng kể vào phúc lợi của chúng ta. Với một quyết tâm và cần cù không tưởng tượng được, những người Mỹ mới này đã dậy dỗ con cái, nuôi sống gia đình và lợi dụng các cơ hội mà xứ sở này đã dành cho bất cứ ai tham gia vào xã hội. Đó chính là những người đã bao năm đem xương máu ra chiến đấu cho quê hương cũ trong hàng ngũ QLVNCH. Chúng ta đã bỏ rơi họ và những hy sinh của họ đã thành vô nghĩa. Tuy nhiên cưu mang họ trên đất này đã cho chúng ta đền tội đôi phần.KẾT LUẬNĐể kết luận, tôi chỉ xin nói rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến giá trị, bởi người Nam Việt và các đồng minh của họ bảo vệ một mục đích cao đẹp. Tất cả các chiến binh đều đã tham chiến với một tấm long vô biên và họ đã gần như đạt được mục đích bảo đảm cho Nam Việt có tự do như một quốc gia độc lập. Có lần một phóng viên đã nhận xét rằng Đại Tướng Creighton Abrams phải được chỉ huy một cuộc chiến hay hơn. Tôi đã nói câu ấy cho trưởng nam của Tướng Abrahms và được phản hồi ngay; “Cha tôi không nhìn như vậy. Ông nghĩ rằng người Nam Việt rất xứng đáng”. Và tôi đồng ý.Tóm lại, đối chiếu biểu của QLVNCH bao gồm cà địa phương và nghĩa quân trong năm 1970 rất tích cực. Rốt cục chúng ta đã không thắng trận, tuy nhiên tinh thần, sự tận tâm, can đảm và lòng quyết chí của tất cả các chiến binh đã nẩy nở thăng hoa trên đất nước này. Chúng ta đều cùng tiến tới.Tài liệu tham chiếu:1. “Bibliography Periodicals” của Douglas Pike.2. “History Proves Vietnam Victors Wrong” của James Webb.3. “The Development of the South Vietnamese Army” của Thiếu Tướng James Lawton Collins Jr.4. “Senior Officer Debriefing Report, CG II Field Force, Vietnam, 29-3-1966 của Đại Tướng Fred C. Weyand.5. “Message Abrams to Johnson, MAC 5307, 04950Z 6-1967.6. “Lt-General Dong Van Khuyen, RVNAF Logistics”.7. “Time, 19 April 1968”8. “Letter, General Bruce C. Clarke to General Hal C. Pattison”9. “The History of the Joint Chief of Staff: The Joint Chief of Staff and the War in Vietnam, 1960-1968”10. “Brigadier Geberal Zeb B. Bradford Jr. Interview, 12 October 1989”11. “Message, Abrams to Wheeler and McCain, October 1968”12. “William Colby, ‘Vietnam after McNamara’, The Wahington Post 27-4-1995”.13. “Ambassador Ellsworth Bunker, Thayer Award Address”.14. “John Paul Vann, Remarks, Lexington, Kentucky, 1972”.15. “Brigadier General Tran Dinh Tho, The Cambodian Incursion”.16. “Geoffrey Perret, There’s a War to be Won”.17. “Message, Cliff Snyder, National Archives to Sorley”.18. “An example of LCol Cau Lê 47 Regiment Commander, 12 years in combat and 13 years prisoner of the communist, awarded Silver Star and Bronze Star for valorous combat leadership. Le and his family established a new life in America after his wife Kieu Van had worked as a nurse to support their five children until her husband was released from captivity. See Robert F. Dorr and Fred L. Borch, ‘US Medals’”.19. “General Cao Van Vien et al, the US Advisor”.20. ”Lt General Ngo Quang Truong, Territorial Forces”.21. ”General Creighton Abrams at WIEU, 18 April 1973”22. “Thomas Polgar as quoted in J. Edward Lee and Toby Haynsworth”23. “Colonel LeGro as quoted in L. Edward Lê and Toby Haynsworth”24. “Ambassador Ellsworth Bunker, Oral History Interview”25. “Quoted in Jeffrey J. Clarke, Advice and Support”26. “As reported by Major General George J. Forsythe, following a 20 January 1968 meeting with President Thieu”27. “Joint Chiefs of Staff, the History of the Joint Chiefs of Staff”28. “Notes by Vicent Davis on telecom during which Vann described his 15 December 1969 Presentation at Princeton”29. “Lester A, Sobel, ed,. South Vietnam. US Communist Confrontation in Southeast Asia.30. “Remarks, Lexington, Kentucky 1972, Vann papers”31. “Ellsworth Bunker Interview, Duke University, Living History Project”32. “WIEU, 30 January 1973, in Sorley, Vietnam Chronicles”33. “COMUS Update, 16 February 1971”34. “Briefing with Admiral McCain, 19 February 1971”35. “Commanders Weekly Intelligence Update, 20 February 1971”36. “Message, LtGeneral James W. Sutherland to Abrams, March 1971, Special Abrams Papers Collection”37. “COMUS with Sir Robert Thompson, 25 March 1971”38. “Secretary of the Army Brief, 26 April 1971”39. “Major General Nguyen Duy Hinh, Lam Son 719”40. “Military Institute of Vietnam, Victory in Vietnam (University Press of Kansas)”41. “John Paul Vann, Letter to Henry Cabot Lodge, 9 December 1969, Vann Papers”42. “Message, Barnes to Weyand, March 1972, MHI files”43. “Lưu Van Loi and Nguyen Anh Vu (Le Duc Tho and Kissinger Negociation in Paris”44. “Remarks, Lexington, Kentucky 8 January 1972, Vann Papers”45. “Douglas Pike, ‘A Look Back at the Vietnam War: the View from Hanoi’”46. “Douglas Pike, PAVN, People’s Army of Vietnam”47. “Message, Abrams to Laird, May 1972”48. “Melvin R. Laird, “Iraq: Learning the Lesson of Vietnam”49. “The Washington Post (28 December 1968)”50. “James L. Buckley, ‘Vietnam and its Aftermath’ in Anthony T. Bouscaren, ed.”51. “Merle L. Pribbenow, Message to Sorley, 1 May 2002”52. “Seth Mydams, ‘A War Story Missing Pages’, The New York Times 24 April 2000”53. “Vietnam Magazine Auguat 1990”54. “The Boston Globe, 20 April 2000”55. “Colonel Stuart Herrington, Fall of Saigon, Discovery Channel, 1 May 1995”56. “Australian Minister for Immigration Michael McKeller was quoted as saying that ‘about half the boat people perished at sea’. Thus he said in 1979, ‘We are looking at a death rate of between 100,000 and 200,000 in the last four years’. The Age Newspaper, The Boat People: an Age Investigation”


ENGLISH


by Bill Laurie

1 RVNAF, the Republic of Viet Nam Armed Forces, underwent a significant change, both qualitatively and quantitatively, between 1968 and 1975. It was a change that went unnoticed by the news media and remains generally unknown to the American public, and is inadequately identified and described in many would-be "history"books, in part because the nature and extent of change could not readily be foreseen or predicted based on RVNAF performance and capabilities up to 1968. None of this is to deny serious problems existed, or that corruption and poor leadership did not continue to plague RVNAF's ability to defend the Republic of Viet Nam, yet to a degree these problems were being addressed and the positive aspects of RVNAF cannot be excluded from honest history.

I experienced this personally, arriving in Viet Nam in late 1971, serving one year with MACV, and returning for two more years, 1973-1975, with the Defense Attache Office. Originally scheduled and trained to serve as an advisor, I attended Infantry Officer Basic at Ft. Benning, Georgia; Combat Tactical Intelligence and Southeast Asia Orientation at Ft. Holabird, Maryland; and Viet Namese Language School at Ft. Bliss, Texas. Upon arriving in Viet Nam I was told advisory slots were being phased out and instead I was assigned to MACV J-2 as an intelligence analyst, first covering Cambodia and then concentrating on Military Region IV, covering the entire Mekong Delta. This job expanded informally and encompassed liaison work with RVNAF staff, US advisory teams, GVN provinces, and RVNAF units in the Delta. During these three years I was, at one time or another, in 18 of the former RVN's 44 provinces, dealing with not only US and RVNAF elements but also with the Australians, USAID, and the CIA. I sat in on very high level briefings at MACV HQ as well as the RVN JGS, while the next week I might be in a Kien Phong rice paddy with PF troops, or flying across Dinh Tuong province in an ARVN Huey, or at Tra Cu Ranger Base along the Vam Co Dong River. Of great importance was the ability to speak Viet Namese, and within one month after arriving in Viet Nam it was clearly apparent that nothing I'd heard in the US, either the "news reports"or rather silly debates on college campuses, described what I experienced and encountered. In sum, I asked myself "If all those people in the

2 U.S. are talking about Viet Nam, then where am I?" My off-duty hours were spent entirely within a Viet Namese dimension of reality. Whether in Saigon, or Cao Lanh, or Rach Gia, I frequented the "quan nho,"the card-table soup and coffee stands, eagerly listening to Viet Namese people and troops, asking questions, and learning far, far more than I'd ever learned in the States, or even knew there was to be learned. My education did not end in 1975. Since then I have read cubic feet of declassified documents and hundreds of books (to include works in Viet Namese), interviewed scores upon scores of Southeast Asia- and US-born veterans of the war, and prowled the internet's hundreds of Viet Nam and Southeast Asia websites. There remains much, much more to Viet Nam, Laos, Cambodia and Thailand than is suspected by the American public, and conclusions presenting themselves do not conform to what most people think they know.

Yes, there were serious problems with corruption. Yes, there were examples of inept leadership. Still, no one told me, or even suggested, that my initial exposure to the ARVN 9th Infantry Division would reveal the professional and highly competent performance witnessed at a division FDC (Fire Direction Center for allocation of supporting artillery fire). Nor had anyone told me that the 7th ARVN Infantry Division, forever condemned by its lackluster performance at Ap Bac, years earlier, had evolved into a highly effective unit under the leadership of General Nguyen Khoa Nam, a man of impeccable integrity and tactical skills who remains unknown to the American public, while being justly revered by the Viet Namese people. Nor did any suggest it would even be possible for Hau Nghia Province's RF forces, the provincial militia, to thoroughly humiliate not one but three NVA regular regiments during Hanoi's 1972 Offensive, systematically chewing up and spitting out attacking enemy forces that could have feasibly changed the course of history during this period.1 The RF did not have the artillery and air support available to regular ARVN (to include Airborne and Rangers) and Marine units, and relied heavily on basic hard-ball infantry skills. Had the NVA broken through they would have posed an immediate and direct threat to Saigon, a mere 25 miles away, forcing ARVN 21st Division forces to pull back from QL 13, and thereby allow NVA forces to direct all their attention to An Loc. As has been noted by James H.

3 Willbanks(2) in his excellent work, the 21st division, while not succeeding in breaking through to besieged An Loc, did force the NVA to divert a division away from An Loc, which conceivably might otherwise have fallen, with dire consequences.

In sum, RVNAF in its entirety, and often mistakenly referred to as simply "ARVN,"was capable of far more than I had learned before going to Viet Nam, and far more than was conveyed to the American people. Then...and now. Going back to the period discussed in this presentation, it is acknowledged that RVNAF had serious problems. This is obvious. Were this not so, U.S., Australian, South Korean, Thai and New Zealand combat units would not have been required. Still, there were indications of what well-led, properly armed and equipped RVNAF forces were capable of. In 1966 the 37th ARVN Ranger battalion decimated an NVA regiment three times its size at Thach Tru, receiving a Presidential Unit Citation from Lyndon Johnson for its feat. An American advisor to the 37th, Capt. Bobby Jackson, described his counterpart, company commander Capt. Nguyen Van Chinh, as being "utterly fearless."3 The 2nd Marine, or Thuy Quan Luc Chien, Battalion, whose shoulder patch depicted a "Trau Dien,"a "Crazy Buffalo,"had likewise bullied VC and NVA units, demonstrating the appropriateness of their unit symbol (all the more meaningful for those who've encountered an enraged water buffalo). Their accomplishments were unreported in the US news media and are ignored in later day "histories."

By 1968, and in the aftermath of Hanoi's failed '68 strategic counter- offensive, it was clear to US decision makers that "Viet Namization"must be accelerated, which many people falsely assume is the demarcation between a period when RVNAF wasn't fighting, and now would begin to fight. This overlooks the fact that RVNAF monthly combat fatalities greatly exceeded those of combined allied forces for the entire war. RVNAF was finally supplied with modern weapons, replacing the WW II equipment most had been using (by early 1968 only 5% of RVNAF were using the M-16 rifle), generally inferior to VC/NVA weaponry. Concurrently, RVNAF strength increased the board:

4 1968 1972
Regular Forces
Army 380,000 410,000 Plus 30,000/7.9%
Air Force 19,000 50,000 Plus 31,000/163%
Navy 19,000 42,000 Plus 23,000/110%
Marines 9,000 14,000 Plus 5,000/56%
Total Regular 427,000 516,000 Plus 89,000/21%
RF/PF Militia*

RF 220,000 284,000 Plus 64,000/29%
PF 173,000 248,000 Plus75,000/43%
Total 393,000 532,000 Plus 139,000/35%

Overall Total 820,000 1,048,000 Plus 228,000/28%
(4)

*The term "militia"is often used yet may wrongly suggest the final evolution of these elements took the form of part-time irregulars. Sometimes referred to as "territorials,"the RF(Regional Forces, or Dia Phuong Quan) and PF(Popular Forces, or Nghia Quan) were full time military units, typically limited to their home province, or district, respectively.

As can be seen, "ARVN"-the Republic of Viet Nam ARMY, was only one component-56%-of the total armed forces. There were yet other elements, to include the National Field Force Police, People's Self Defense Force/Nhan Dan Tu Ve (PSDF), and Rural Developemt (RD) teams. While the latter were not considered full-time combat troops, and the PSDF often ridiculed, they were an impediment to the VC/NVA. In one case, not known to be documented, an RD cadre team turned back a VC battalion in Vinh Long province, its members skilled in calling in province artillery.5 While the PSDF were too young, too old, or too disabled to join the regular military, serving only as a village hamlet defense force against local VC tax, recruiting, or agitprop teams, they were another factor the local communists had to deal with, and one that had not been in place before 1968, when local VC could freely enter hamlets at night. Sometimes the PSDF were ineffectual, and sometimes they were propagandized into joining the VC (6), yet at other times:

5 "...they (two VC) were trying to abduct a member of the PSDF when another PSDF appeared on the scene and shot both of them dead with an M-1. An AK-47 and 9mm Chicom pistol were captured."
And... "Both Prey Vang and Tahou hamlets received small arms fire and B-40s tonight. The local PSDF managed to drive off two light ground probes."(7)

It was also an 18-year-old PSDF member who knocked out the first of many tanks destroyed at An Loc in the 1972 siege. (8)
Hanoi was not pleased:

"They [RVNAF] strengthened puppet [sic] forces, consolidated the puppet [sic] government, and established an outpost network and People's Self Defense Force organizations in many villages. They provided more technical equipment for, and increased mobility of, puppet [sic] forces, establishing blocking lines, and created a new defensive and oppressive system in densely populated areas. As a result, they caused many difficulties and inflicted losses on friendly [VC] forces."9

This would not and could not have happened prior to 1968's creation and arming of PSDF with cast-off WWII weapons passed down from main force RVNAF elements. Likewise, the RF/PF, with assistance of US Mobile Advisory Teams (MATs), belatedly employed in 1968 (10), and armed with better weapons, began making progress, as witnessed in 1970 by MAT member David Donovan during a classic infantry assault:

"We had just gotten past the major infestation of booby traps when we began to receive fire from a tree line in front of us. Water spouted up around us, bullets whined overhead, and we heard the stuttered popping of light small arms fire. The men reacted well now, not like the early days when getting any reaction from them under fire was next to impossible. Sergeant Abney took the rear of the column and swung around to the right, using it as a maneuver element while those of us in the front returned fire. When Abney's troops got to a good protected position they stopped and began firing themselves. Under the cover of their fire we moved ahead to yet another position. In this back-and-forth stepwise manner Abney's and my group finally got to the tree line and into the direct assault. Three men in the element I was with had been hit, I didn't know how badly, but everyone kept moving up. We had done well."11

6 Donovan's experience was not unique. Advisor John Cook recalled his optimism of 1970:

"We [Cook and his Viet Namese counterparts] were riding high, feeling almost indestructible. The morale and aggressiveness in the district was extremely high, causing us to pursue the enemy with almost reckless abandonment."12

Performance of this caliber was not universal. There were units that did not respond to changing times and remained plagued by poor leadership, complete absence of aggressive patrolling and tactics, and instances in which American advisors may have been killed, or threatened by, RF/PF counterparts with whom they did not get along.13 Other American advisors did not encounter these unpleasantries but were unimpressed with their advisee charges. Still, accounts of favorable experiences and observations abound, yet are virtually absent from the national discussion and common American perceptions, or what is taught in our schools.

Improvement, or outright excellence, was not limited to the territorial forces, and ARVN infantry divisions-admittedly not all-demonstrated aggressive tactical brilliance. Quang Tri Pacification advisor Richard Stevens, who'd served a prior tour in the Marines, was amazed at the performance of ARVN 1st Division elements successfully attacking an NVA rocket launch site:

"I was totally impressed and just dazzled actually, by the way they operated and by their daring in doings things. ... This was the thirteenth operation like this that this guy [a battalion XO] had led. You're talking about people that are total experts at what they're doing and who have done so many hair-raising things already and are still doing it. ... This regiment's advisors told me all the time I went there that...you're working with the best now. There's nothing we can tell these guys about anything. We're [the advisors] just fire support people. But as far as knowing how to operate, they're the ones that teach us.' We had both Australian and American advisors; they all said the same thing."14

To the south, in MR IV's Dinh Tuong Province, the 7th ARVN division also performed flawlessly, as testified by advisors and US "slick"pilots who flew 7th division troops on combat assaults. While the 7th, perhaps by virtue of the Ap Bac debacle of 1963, was termed by some a "search and avoid"unit, those working directly with the 7th have nothing but praise and admiration for the

7 7th's aggressiveness and tactical expertise. A former NVA infiltrator testified to the ARVN 7th's prowess:

"....the liberated zone was shrinking. ... I spent more and more time moving around, trying to stay away from ARVN operations. "In Ben Tre [AKA Kien Hoa Province] it was mainly the ARVN 7th division that was causing problems. Most of the division was recruited from the Delta so they knew the whole area. They were just as familiar with it as we were."15
Conditions became even worse as newly arrived NVA fillers to "VC"units did not know the area at all and were ill-equipped to wage the tree-line warfare of the northern delta. One POW indicated he was captured shortly after arriving when he and others were assigned to ambush a 7th division sweep the following day. In place before dawn, the would-be ambushers were hit from behind by 7th division flank elements ahead of the main body.16
The results of this became increasingly evident between 1968 and 1971, a period during which US troop strength was reduced by more than half, and decline in VC/NVA offensive operations was clear and distinct:

1968 1972 1968-1972 Change
US Forces 537,000 224,000 Down 312,000/58%
VC/NVA Bn Atks 126 2 Down 124/98%
Small Scale Atks 3,795 2,242 Down 1,553/41%
Terrorist Atks 32,362 22,700 Down 9,662/30%
Assassinations 5,389* 3,573 Down 1,816/34%
Abductions 8,759** 5,006 Down 2,573/43%
Percentage Secure 47 84 Up 37/56% Hamlets

Rice Growing Area 2,296 2,522 Up 226/9.8% (1,000 Hectares)
VN Civilians Admitted to Hospital For War-Related Injuries(% total Population)
88,149 39,402 Down 48,474/55%
VC/NVA Strength 250,300 197,700 Down 52,600/21%

8 *Excludes assassination victims at Hue
**Few abductees ever returned. They are assumed to have been killed.
The disparity of change between VC/NVA strength and offensive actions is illustrative:
Percentage Drop, 1968-1971
VC/NVA Bn. Sized Attacks 98%
Abductions 43%
Small Scale Attacks 41%
Assassinations 34%
Terrorism 30%
VC/NVA Strength 21%

The percentage decline in all forms of VC/NVA offensive operations declined more than did overall strength figures, indicating a decrease in overall military capabilities below that expected from a 21% troop strength drop. This occurred while American troop strength declined 58%. Not only were there fewer VC/NVA in country but they less capable of initiating offensive operations. Little doubt exists that many Viet Nam statistics were of questionable veracity, and the HES rating (secure hamlets) in particular is frequently and justifiably damned for inaccuracies, yet the trend line is clear and there is no body of evidence, statistical or anecdotal, suggesting anything but a precipitous decline in VC/NVA fortunes between 1968 and 1971. While the VC, as distinct from the NVA, were not completely destroyed, and pockets of strong VC influence and control remained in such provinces as Chuong Thien, Dinh Tuong, Quang Nam and Quang Ngai, the indigenous VC were no longer a strategic force and had it not been for massive NVA infiltration and provision of modern weaponry, the war were have gradually expended itself. Even those VC units and areas that remained were entirely dependent on the NVA for their survival. "Anti-war"writer Frances FitzGerald, author of Fire in the Lake (ironically enough thoroughly lambasted by both Hanoi chief ideologue Nguyen Khac Vien and NLF/Hanoi supporter Ngo Vinh Long) acknowledged survival odds for both VC and RVNAF troops, in 1966 was 50-50, yet by 1969 VC survival odds plummeted to 10% while an RVNAF soldier had a 90% survival chance.18 Nguyen Van Thanh, after 23 years as a Viet Cong, defected in 1970, viewing the NLF cause as hopeless, citing improved RVNAF operations,

9 expansion of district PF and PSDF programs, and the GVN's impending land reform program as factors he could no longer deal with.19 Stanley Karnow states forthrightly in his profoundly over-rated book, without ever having explained how this all came about, that by 1971 "...the Viet Cong alone was no match for the Saigon government army."20

Don Colin spent years in Viet Nam and was widely renowned for his gruff, excessively blunt rejection of anything he viewed as, and vociferously damned, as utter bullsh-t. He suffered through the frustrating difficulties, false-starts, and the very same problems viewed as constant unchanging universals, if not harbingers of doom. Yet by 1971 he saw the cumulative results materialize in the delta:

"Thirty months ago the number of good leaders in MR IV could be measured on one hand. Even the corps commander, while he was a good, honest and fairly capable leader, was shy, unimaginative and not capable of stirring his subordinates to aggressive and positive activity. Division commanders were largely incompetent and most Province chiefs were largely incompetent and corrupt. Subordinate commanders not only mirrored but in most case magnified these faults. Now, the overall level of competence, honesty and dedication has risen to levels I would previously have thought unimaginable. ... This particular change has made me more sanguine regarding the ultimate ability of the Government to fully control Viet Nam and establish a stable government."21

Then came Hanoi's 1972 offensive, a conventional blitzkrieg characterized by modern heavy weapons and introduction of such lethal devices as the SA-7 Grail anti-aircraft missile, the AT-3 wire-guided Sagger missile, and a veritable armada of T-54 tanks supported by several hundred 122mm and 130mm artillery pieces, superior to anything and everything in the US-supplied RVNAF artillery arsenal. RVNAF took some heavy hits; it appeared at times as if the end might be near and collapse imminent, yet RVNAF took a standing 8 count, recovered and blunted the heaviest offensive to date in Viet Nam. None other than America's preeminent VN scholar, Douglas Pike, declared Hanoi's invasion failed because "...the South Viet Namese outfought the invaders from the North."22 Many commentators, to include Gen. Ngo Quang Truong, cite American air power as a decisive factor, and it was pivotal. Yet the implication that RVNAF would not or could not fight without US airpower omits

10 consideration of two key points. First, US troops would have expected, and been entitled to, the exact same air power that was used to support RVNAF. Secondly, and this point is seldom recognized: US airpower was a compensatory factor countering both superior NVA armor and, most significantly, superior artillery, the accurate 122mm and 130mm guns delivering massive destruction at ranges up to 19 miles. The US did not provide its ally, the Republic of Viet Nam, with as good an arsenal, especially in the realm of artillery, as the Soviets and Chinese Communist provided Hanoi. Hanoi had hundreds of 122mm and 130mm guns; RVNAF had no artillery sufficient to fire counter-battery, and had only two dozen or so 175mm guns, which are not as accurate as and have a lower cyclic rate of fire than 122s and 130s. Not even reinforced bunkers can withstand 130mm rounds with delayed fuses. Finally, again addressing the subject of airpower, RVN's own air force performed admirably during the 1972 battles, yet remain ignored by American commentators. An American FAC admired the VNAF A-37 pilots with whom he conducted an air strike against NVA positions:

"His dive took him down within range of automatic weapons and sure enough as I saw several lines of tracer ammo arcing toward Pepper lead, I shouted a warning. I saw him release his bombs at the very low altitude and score a perfect hit on the wall. In their succeeding passes, the VNAF pilots scored perfect hits each time and each time they were met by a hail of ground fire. ...ground fire [against the aircraft] was extremely intensive. The North Viet Namese seemed to know their antagonists were South Viet Namese."

"I fully expected the A-37s to be shot down but both delivered all their ordnance unscathed. The two VNAF pilots put on quite a show and I admired their bravery if not their good sense."23

This was not an isolated incident, as attested by another American observer:
"VNAF came into its own during the 1972 offensive. ... In the defense of Kontum the VNAF has been magnificent, absolutely magnificent."24
RVNAF took Hanoi's best shot in 1972, a shot far exceeding '68 Tet battles in terms of troop numbers and firepower. Roughly 150,000 NVA were believed to have been committed in the offensive's first phase, and another 50,000 deployed as the battles ensued. Tet '68 on the other hand, saw 84,000 VC/NVA committed, with limited artillery and armor (excepting MR I).

11 RVNAF continued to do reasonably well after the fraudulent Paris "Peace" Accords were signed and promptly violated. By late September 1973 an RVNAF task force had driven the 1st NVA division out its Seven Mountains redoubt and inflicted such heavy casualties that the 1st was disbanded, its surviving members parceled out to other units. A few months later the ARVN 7th division launched a major operation to drive NVA units out their Tri Phap base area in the Dinh Tuong-Kien Tuong-Kien Phong tri-border area, inflicting heavy casualties. Tri Phap had never been penetrated throughout the war and was characterized by hardened defensive positions; the defeat was so humiliating that communist authorities were cautioned to hide this defeat from their troops lest they become demoralized.25 The Polish and Hungarian delegates to the impotent ICCS (International Commission for Control and Supervision (of the "cease fire")) doubled as spies for the Hanoi's communists. One of their 1973 reports stated no VC units (what few there were) were equal to RVNAF regulars, and even the NVA's best weren't comparable to RVNAF's Airborne or Marines.26
By mid-1974 however US aid cutbacks began to slowly strangle RVNAF, and it would only get worse from thereon out. By 1975 the Available Supply Rates (ASR) for artillery rounds had plummeted to unacceptable low levels (per tube, per day):

1972 1975
105mm 180 10 Down 170/94%
155mm 150 5 Down 145/97%
175mm 30 3 Down 27/90% (27)

Everything was cut to the bone, and into the marrow. Some infantry troops were provided a basic load of 60 M-16 rounds, per week. Some units forbid troops from firing M-16s on full automatic. Infantry units in contact were sometimes limited to two artillery rounds on call unless being overrun. Lack of spare parts forced mothballing of tanks, river patrol boats, and aircraft. Worse yet, RVNAF troops and their families suffered under an economy shredded by 50% inflation and a 25% unemployment rate. A US DAO study conducted in 1974 revealed 82% of RVNAF did not receive enough food to meet family needs.28 Hunger and malnutrition eroded morale and combat capabilities. The

12 situation worsened in following months, and was sickening to watch, a veritable death by a thousand cuts. A year later, when the GVN finally collapsed and, as can be inferred from reading would-be history books, many Americans were apparently surprised, wondering how everything could collapse overnight. The more intriguing question is how RVNAF fought on as long as it did after mid- 1974, with inadequate weapons, equipment, munitions, fuel, medical supplies, a constantly empty stomach, and an equally hungry family. Once the dam broke and the rout began following Thieu's order to pull out of the Highlands, chaos and panic took over, helped in part by confusing and changing orders emanating from the Presidential palace. As ignominious as the final collapse was, there were more than a few little "Alamos"as RVNAF defenders fought to the end. The 18th infantry division's stand at Xuan Loc was an epic battle, yet the 1st Airborne Brigade's presence and role in this very same battle is virtually unknown. While MR II was collapsing and the end appeared near, ARVN 7th division troops defeated an NVA attempt to cut QL 4, the sole highway connecting the Mekong Delta to Saigon. On the final day, the "ngay quoc han (day of national indignation),"an AC-119K gunship flown by Lts. Thanh and Tran Van Hien circled Saigon providing fire support for the last units engaged. Out of fuel and munitions, they landed to refuel and re-arm and were told by their operations officer they need not take off again, all was lost. Lt.s Thanh and Hien stood firm, received their fuel and munitions and, accompanied by two A-1H Skyraiders piloted by a Major Truong Phung and a Captain Phuc, resumed their desperate battle. Only Capt. Phuc survived, strafing until he ran out of ammunition. Lt.s Thanh and Hien, along with Major Truong Phung, all met their deaths, shot down by SA-7 missiles. They fought to the very end.29

Overall, no military, as starved as RVNAF was, could have withstood the NVA onslaught, as engorged as the NVA were with communist bloc artillery, armor, weapons, fuel, troop transport trucks, and munitions. As it was, even though RVNAF was gutted by aid cutbacks, it took everything the NVA had. Approximately 400,000 communist forces, almost 90% NVA, were required to defeat RVNAF. Hanoi had never before fielded a force as large and as modern as it did in 1975. It had never pulled all its units out of Laos and Cambodia.

13 Quantitatively, the 400,000 is just under 5 times the VC/NVA forces committed in Tet '68, yet qualitatively, enhanced by hundreds of long range artillery pieces, hundreds of tanks, thousands of trucks, and a complete arsenal of modern weaponry, the 1975 legions had more than 5 times the combat capability of Tet '68 forces. Examining matters from another perspective, it can be safely asserted that had the NVA been as enervated by supply cuts as was RVNAF, it could never have launched much less sustained its final offensive. Superior fire power proved decisive, hardly a novel development in military history. By the end, RVNAF suffered a total of approximately 275,000 combat fatalities (excluding assassinations), from a country whose average population during the course of the war was about 17 million. Had the United States, with a population average of 200 million during the same time frame, sustained proportional fatalities, the death toll would have exceeded 3,200,000, necessitating another 56 "Walls"to record the names of the fallen. This did not go unnoticed by some observers. Sir Robert Thompson, while fully cognizant of RVNAF's shortcomings and growth pains, concluded:

"They [RVNAF and the GVN] surmounted national and personal crises which would have crushed most people and in spite of casualties which would have appalled and probably collapsed the United States, they could still maintain over one million men under arms after more than ten years of war. The United Kingdom did just that, proportionately, in 1917 after three year of war but never again. The United States has never done it (emphasis added)."30

Correspondent Peter Kann, far more enlightened than many of his journalistic colleagues, also weighed in, following Saigon's defeat:
"South Viet Nam did manage to resist for a great many years and not always with a great deal of American help. Few nations or societies that I can think of would have struggled so long."31

Did "Viet Namization"work? Had RVNAF matured and grown into a capable fighting force? It can be argued it did, only to be eviscerated by lethal aid cutbacks. A 1974 survey of U.S. generals who served in Viet Nam asked how well "Viet Namization"had succeeded. The answers:

1)ARVN is very acceptable fighting force 8%
14 2)ARVN is adequate and chances of their holding in the future are better than fifty-fifty 57%
3)Doubtful ARVN will make it against a firm 25% push in the future by VC/NVA
4)Other/No Answer 10% (32)
Thus, 65% of commanding generals gave RVNAF (in this case 'ARVN') a positive vote, yet these responses may have a built-in downward bias. It is not known how many of the U.S. generals served their tours in, say, 1966 or 1967, before RVNAF had embarked on its greatest improvement. It is not revealed just what role any of these officers served, with whom, and to what extent they were intimately familiar with RVNAF as a whole, the increasing effectiveness of RF/PF, etc. Nor was the question asked: "How would US troops have fared, in 1974-1975, under supply cutbacks suffered by RVNAF?" What can be said with certainty is that RVNAF, from 1968 on, accomplished far more than is generally known, that RVNAF units developed such proficiency that they were able to withstand and eventually defeat, NVA invaders in 1972, often, in the case of RF/PF, without massive artillery or tacair fire support. What also can be said with certainty is that American understanding of this is abysmally and disgustingly low.

Another very important factor that many commentators overlook and remain ignorant of was the younger generation of RVNAF officers and NCOs who were dedicated to the cause of a non-communist Viet Nam. They were open, candid, rational and honest, acknowledging, for example, that the Montagnards should not be treated as inferiors, that corruption need to be attacked, and that the a new Viet Nam need be forged, freed from shackles of the past. Many of these people were well-positioned to dodge the draft or secure a safe non-combat position; they did neither, and could be found in serving in high-risk combat positions, as volunteers. Their attitudes were articulated by one young RVNAF officer:

"....the people my age joined the military [RVNAF] because we had an ideal and we understood what it was to live in a free world and to live in a Communist world. It was not like people said, that those who joined the military were just conscripted into the service and didn't have any

15 ideas of their own. But the Americans never seemed to understand that."33 Tran Quoc Buu was chairman of RVN's Labor Confederation, equivalent to America's AFL-CIO. He had influence and could have arranged for his son to find safe duty, much safer than his position as an ARVN infantry officer. In the closing weeks of RVN's existence, while pounded with NVA artillery and desperately short of munitions, Buu's son wrote him a letter:

"You must explain to them [Americans] the gravity of our situation. ... They have to provide the military and technical aid they had promised. I beg you Father, to intervene with them. Otherwise, we will be crushed and defeated. We are not cowards. We have no fear to die. ... In any event, I will hold my position and not withdraw."34

Tran Quoc Buu's son was killed in action. Dr. Phan Quang Dan was minister of refugee resettlement, a former opponent of Ngo Dinh Diem, and known for his honesty. He had the power and influence to keep his son, Phan Quang Tuan, out of harm's way. Neither accepted this option and Tuan volunteered to fly A-1E Skyraiders, used solely and expressed for close tactical air support. After killing 7 NVA tanks along the DMZ during Hanoi's '72 offensive, Captain Tuan was shot down and killed by NVA anti-aircraft fire.35 These individuals were not unique. This author routinely encountered young gunship pilots, rangers, marines, airborne, all volunteers for hazardous combat duty, and all of whom were repulsed by the idea of a communist Viet Nam, and the continuation of business-as-usual corruption emanating from Saigon. One of the more poignant examples of dedication to the nationalist cause occurred when cadet officers from RVN's Da Lat military academy prepared to make their last stand, as witnessed by French correspondent Raoul Coutard who encountered them moving out to block advancing NVA units:

"'You are going to be killed?'
'Yes,' answered a warrant officer.
'Why? It is finished.'
'Because we don't want communism.' And, bravely, these young cadets in their beautiful new uniforms, their well-polished shoes, went to get themselves killed."36

16 The Truong Thieu Sinh Quan, in Vung Tau, was a boarding school and military academy for Viet Namese youth whose fathers died in the war. When the end came, the 12- and 13-year boys sent the smaller children home, barricaded the school, and engaged advancing NVA units:

"They kept fighting after everyone else surrendered! ... Many of them were killed. And when the Communists came in the cadets fought them. The Communists could not get into that academy."37

People of caliber were rising in RVNAF's ranks, and exigencies of the situation forced greater reliance on promotion based on ability, not political reliability or family connections.

The American news media failed, utterly and pathetically, in Viet Nam, far, far more than the military forces, RVN, US and allied, they frequently condemned with smug and presumptuous inferences. A survey of 9,604 broadcasts by NBC, CBS and ABC, from 1963 to 1977, clearly showed the inadequacies of television reporting(sic). 67 (0.7% of total) dealt with RVNAF training. 79 (0.8%) with Pacification. 256 (2.7%) with either RVN or Cambodia government or military. A total of 392 broadcasts, comprising 2.7% of all television news coverage of Viet Nam.38 There was nothing about the more than 200,000 VC/NVA hoi chanh vien(defectors), nothing about RVNAF forces that fought well. Nothing about the famed "Kingbees,"RVN helicopter pilots who saved lives of US Special Forces elements under fire along the Ho Chi Minh Trail. Most if not all Americans recall the dramatic photo of the Chinese man who stood before a tank in Tiananmen Square yet no one knows of RVN Marine Sergeant Huynh Van Luom who stood on the Dong Ha Bridge and stopped an NVA tank column, firing his LAW anti-tank missile:

"The spectacle of this 95-pound Marine lying in the direct path of a 40- tank, which had no intention of stopping, was in one respect incredibly mad. In another, more important respect, it was incredibly inspiring to a pathetically thin defensive force and to many refugees, few of whom had ever witnessed such an act of defiance and bravery. ...The extraordinary bravery of this one South Viet Namese Marine had caused an armored attack, which until that moment had been almost certain of success, to lose its momentum."39

17 In a telling instance of news media myopia, reporter Donald Kirk exhibited absolutely no interest in visiting the ARVN 7th division, where, under the leadership of Gen. Nguyen Khoa Nam, the 7th had become an extremely effective unit, whose members appreciated the division farm Gen. Nam established to alleviate economic hardships of his troops. Yet when Kirk and other reporters were detained at an NVA road block, and later set free, Kirk was upset that he didn't have the chance to talk with the NVA:

"I kept thinking how much they looked like they were right out of the movies. ... They seemed to be like regular guys, you know. I only wish we could have stayed and talked to them longer."40

Mr. Kirk can rest assured that 7th division troops were "regular guys,"well worth talking to, and learning from. He, like the much of the news media, was not interested and there is little mystery as to why most Americans who served in Southeast Asia view the news media with bitter contempt.

Had the news media made any attempt to connect with the Viet Namese people and troops they would have found, as I did time and time again, that they viewed Hanoi's communism with contempt and disgust, as a betrayal of Viet Nam's culture and values. They were not fighting, and dying, to protect the "corrupt Thieu regime"but to secure a better life for their people, their children, and their country. In an extreme expression of this view, one Viet Namese Marine enlisted man told me that after they'd finished with the NVA they were going to turn their guns on Saigon corruption. The dismal and tragic events that followed after 1975 verify the logic and validity of their commitment. The entertainment media and American education have done no better and remained content to repeat if not embellish media-established mythology. A widely used high school history textbook's Viet Nam chapter has no mention of RVNAF to speak of, saying only that "Viet Namization failed,"and otherwise incorporating over 200 demonstrably false or grossly misleading statements in just over 13 pages of text. There is mention of the Cambodian Incursion, yet no indication that more RVNAF troops were involved-29,000-than the 19,300 US troops committed, or that RVNAF had previously conducted spoiling raids

18 against NVA positions in the Cambodia. RVNAF, as will be the topic of another presentation here, was "invisible." Movies and television are, some historical documentaries notwithstanding, even worse. Even the film "Bat 21,"purporting to depict the rescue of LTC Iceal Hambleton in 1972, inexplicably leaves out the fact that an RVN SEAL, Nguyen Van Kiet, conducted the rescue with US SEAL Tom Norris, earning a US Navy Cross for his valor and heroism. How can the American public expect to learn anything when de facto censorship erases any and all indications of exemplary RVNAF performance?

Finally, it needs to be acknowledged that RVNAF was saddled with one serious burden that proved impossible to overcome: an amazingly inept and disturbingly ignorant ally in the form of the U.S. government. An entire seminar could be given on this subject – and should be. Pseudo-strategies emanating from Washington were, in essence, criminally negligent. Nothing was ever done to block and hold the Ho Chi Minh Trail, without which Hanoi's war could never have been prosecuted. Nothing was ever done to engage in the propaganda/counter-propaganda information war, which was, in the form of dich van, a sine qua non for Hanoi's strategy, and one that was conducted with diabolical deceitful brilliance. Nothing was done, until late in the game in May 1967 when CORDS was set up, to plan and intelligently coordinate military and pacification operations. Nothing was done to develop a theater-wide coalition among Viet Namese, Laotians, Cambodians and Thais against a common enemy, while Hanoi did just that, building an Indochina Theater command structure to integrate all factors into a coherent regional strategy. America's excuse for leadership was "mu loa", blind, and fumbled like a hog on ice, like a "coc vang,"a golden toad, very wealthy but very dumb. Counter-historical propositions can seldom be proven with complete certainty, and perhaps the war was "unwinnable." Maybe. Yet those Americans and Australians who served alongside their RVNAF comrades, "chien huu, ban be, giong nhu anh em ruot,"carry with them the profound sadness of having lost the venture, of having lost scores of dedicated friends, and also the great honor of having tried to attain a better world for the common people of Viet Nam, Laos, Cambodia and Thailand. They were not driven by sophisticated

19 concerns over world geo-politics, but rather by respect and admiration for the many Southeast Asians who valued their country, who "the bao ve giang son que huong." Much history remains unexplored, reflecting a continuation of the American propensity to see only through American eyes, filtered by American pre-conceptions. Some books refer to Viet Nam as an "American ordeal,"never once asking what type of ordeal the Southeast Asians experienced. An abundance of valuable historical information and astute observations, without which full comprehension is impossible, is found in books written by Viet Namese (and Laotians). Works by Ly Tong Ba, Ha Mai Viet, Pham Huan, Phan Nhat Nam, Tran Van Nhut and others cry out for translation, as do the dozens of articles published in Viet Namese military journals and publications each year, many of them describing battles, developments, and personalities that are completely unknown to American historians. Failure to consult these sources ensures that Viet Nam, and Hanoi's Indochina war, will both remain indecipherable enigmas, and that RVNAF's real history will remain buried under layers upon layers of myth, ignorance, and unfounded conjecture.

1. Stuart Herrington's Silence Was A Weapon (Novato, CA: Presidio Press, 1982), later re- published as Stalking the Viet Cong, remains the sole narrative of Hau Nghia RF 1972 battles.
2. James H. Willbanks, The Battle of An Loc (Bloomington, ID: Indiana University Press, 2005), pp. 140-141.
3. Personal interview with author, December 1993.
4. Brigadier General James Lawton Collins, Jr., The Development and Training of the South Viet Namese Army (Washington, D.C.: Department of the Army, 1975), p. 151.
5. The author saw the report on this event, which occurred in Vinh Long Province, sometime in early 1975. It is not known if the report still exists or even made it out of Viet Nam.
6. See Herrington, Silence Was A Weapon for commentary on abduction and proselyting of PSDF.
7. Frank Brown, Delta Advisor (Bennington, VT: Merriam Press, 1990), (both incidents) p. 12.
8. General Lam Quang Thi, Autopsy-The Death of South Viet Nam (Phoenix, AZ: Sphinx Press, 1986), pp. 49-50.
9. Dr. Lewis Sorley, A Better War (New York: Harcourt Brace & Company, 1999), pp. 274-275.
10. No known comprehensive study of MATs has been conducted. There were approximately 350 of these small teams deployed after 1968, primarily assisting RF and PF units. This topic needs and deserves research.
11. David Donovan, Once A Warrior King (New York: McGraw-Hill, 1985), pp. 151-152.
12. John Cook, The Advisor (Philadelphia, PA: Dorrance & Company, 1973), p. 167. Reprint: (NY, Bantam Books, 1987), p. 181.
13. One former advisor told the author he was and is sure his fellow advisor was shot by bad elements of the troops he advised. Another told the author he was directly threatened by his counterpart and was reassigned to another province. This was not a common occurrence.
14. Howard C.H. Feng, The Road to Ben Hai, master's thesis, University of Hawaii, 1987, pp. 108-109. 20
15. David Chanoff and Doan Van Toai, Portrait of the Enemy (New York: Random House, 1986), pp. 74-75) p. 185.
16. Author read this POW's interrogation report, which included description of circumstances of capture.
17. American forces in Viet Nam: Michael Clodfelter, Viet Nam in Military Statistics (Jefferson, NC: McFarland Press, 1995), p. 253; VC/NVA battalion-sized attacks and small scale attacks: Clodfelter, p. 151; terrorist attacks: Philip Davidson, Viet Nam At War (Novato, CA: Presidio Press, 1988), p. 633; percentage of secure hamlets: Gunter Lewy, America In Viet Nam (London/New York: Oxford University Press, 1978), p. 192; Viet Namese civilian hospital admissions: Lewy, p. 443; assassinations and abductions: Lewy, p. 454; rice planting area: Nguyen Anh Tuan, Viet Nam-Trial and Experience (Athens, OH: Ohio University Center for International Studies, 1987), p. 399. [[Note: Clodfelter's excellent work is badly mis-titled. While it does have abundant statistics it also contains a great deal of narrative history, regarding both Viet Nam adjoining countries of Laos, Cambodia, Thailand. Highly recommended.]]]]
18. Cited in Michael Charlton and Anthony Moncrieff, Many Reasons Why-The American involvement in Viet Nam (New York: Hill and Wang, 1978), p. 159.
19. Jeffrey Race, War Comes to Long An (Berkeley, CA: University of California Press, 1972), p. 270.
20. Stanley Karnow, Viet Nam, A History[sic] (New York: Viking Press, 1983), p. 595. Author of this paper is willing, at any time, to discuss how and why Karnow's work is, and there's no other way to put it, sloppy, shoddy history.
21. Mark Moyar, Birds of Prey (Annapolis, MD: Naval Institute Press, 1997), p. 180. The author knew Colin personally; he was caustically honest and candid and was not reluctant to verbally demolish fatuous statements.
22. Douglas Pike, Viet Nam and the Soviet Union (Boulder, CO: Westview Press, 1986), p. 93.
23. Norbert Simon, "The Nails-FACs in Viet Nam," Military, Vol. XIX, No. 4, September 2002, p. 12.
24. Sorley, A Better War, p. 338
. 25. Col. William E LeGro, From Ceasefire to Capitulation (Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1981). Seven Mountains: pp. 66-67. Tri Phap: 89-91. Captured document read by author in Viet Nam, 1974. No known copies exist.
26. Oliver Todd, Cruel April (New York: W.W. Norton & Company, 1987), p. 438.
27. Thi, Autopsy-The Death of South Viet Nam, p. 7.
28. Anthony B. Lawson, Director of Special Studies, US Defense Attache Office, Saigon, RVN: Survey of the Economic Situation of RVNAF Personnel(Phase III). Tab B, unnumbered 8th page, Question A15.
29. http://www.vnaf.net/
30. Sir Robert Thompson, Peace Is Not At Hand (New York: David McKay, 1974), p. 58.
31. Cited in Anthony Buscaren, editor, All Quiet on the Eastern Front (Old Greenwich, CT: Devin- Adair Company, 1977), p. 122.
32. Douglas Kinnard, The War Managers (Hanover, NH: University Press of New England, 1977), p.153.
33. Compendium of Viet Nam news broadcasts, by subject matter, prepared by Professor Lawrence Lichty, submitted to The Viet Nam Project, WGBH Television, Boston. Author photocopy undated.
34. Larry Engelmann, Tears Before The Rain-An Oral History of the Fall of South Viet Nam (New York/Oxford: Oxford University Press, 1990), p. 233.
35. Thi, Autopsy-The Death of South Viet Nam, pp. 17-20.
36. Ray Fontaine, The Dawn of a Free Viet Nam (Brownsville, TX: Panamerican Business Services, 1992), pp. 100-105.
37. Raoul Coutard, "L'Adieu Saigon,' (Date/publication unk.) cited in Phan Vinh Kim, Viet Nam-A Comprehensive History (Solana CA : PM Enterprises, 1992), p. 520. 38. Engelmann, Tear Before the Rain, p. 256.
39. Col. G. H. Turley, USMC, Ret. The Easter Offensive (Novato, CA: Presidio Press, 1985), pp. 134-135.
40. Sam Anson, War News (New York: Simon & Schuster/Touchstone, 1989), p. 85. The author met Kirk in Viet Nam and strongly suggested he write a story on the ARVN 7th and its accomplishments, elaborating on Gen. Nam's integrity, tactical brilliance, and dedication to a free Viet Nam. Kirk received this with all the enthusiasm of someone hearing a phone solicitation for 21aluminum siding. He asked no questions and simply walked away. Other advisors experienced the same disdain, asking reporters to come and see how well their counterparts were doing, only to be shunned with blank stares of utter indifference.